Ngày 6 tháng 11 năm Nhâm tuất (20-11-1802), vua tôi nhà Tây Sơn trong đó có Bùi Thị Xuân cùng chồng con bị đưa ra pháp trường tại Phú Xuân. Chồng bà bị xử tội lột da, còn bà cùng con gái độc nhất 15 tuổi tên Trần Bích Xuân bị xử voi dày (bãi chém An Hoà, ngoại ô Huế, ở Trường THPT Bùi Thị Xuân, Đà Lạt. 13,743 likes · 29 talking about this. Các bạn sĩ tử 2k3 ơi!!! Bay qua khu rừng chết chóc Tổ hợp Well situated in the District 1 district of Ho Chi Minh City, A25 Hotel - 19A Bùi Thị Xuân is located a 15-minute walk from Notre Dame Church, 0.8 miles from Ben Thanh Street Food Market and a 17-minute walk from Tao Dan Park. Among the facilities of this property are a restaurant, a 24-hour front desk and room service, along with free WiFi Đúng, Bùi Thị Xuân mất vì bị xử tội chết. Theo sách Đại Nam Liệt truyện chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn, năm 1792, Quang Trung (Nguyễn Huệ) đột ngột qua đời. Triều đại Tây Sơn bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh (Quang Toản) còn nhỏ, bị họ ngoại chuyên Chào bạn! Bạn đang truy cập vào Website Study by testing . Mục tiêu của website này là tạo ra một môi trường cho các bạn học sinh học tập và ôn luyện kiến thức, thông qua hình thức làm bài trắc nghiệm trực tuyến. Mỗi đề trắc nghiệm trên Website bạn có thể làm không giới 1.Review buffet Tonchan 1.1.1 76 Bùi Thị Xuân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Nhà hàng Tonchan nổi tiếng với những món ăn Nhật Bản nằm tại số 76 Bùi Thị Xuân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.Đặc biệt, nhà hàng còn có món mì Ramen trứ danh được rấт nhiều bạn trẻ yêu thích.Nước dùng được chế biến bằng zkBEjN. Bùi Thị Xuân – Tranh của họa sĩ Đỗ Duy Anh Việt Jackson Trước khi vào bài Hàng năm cứ vào ngày mùng 5 tháng Giêng, nhân dân Hà Nội thường tổ chức hội Gò Đống Đa để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây. Trong không khí hào hùng của lễ hội này, tôi không khỏi suy nghĩ về cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân, người dù không trực tiếp tham gia trận đánh nhưng vẫn có một ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử nhà Tây Sơn. Bà được nhiều người ca tụng, rằng sống một cuộc đời anh hùng, và chết một cái chết vô cùng bi tráng. Tuy nhiên, tôi đã nghi ngờ rằng sự thật có phải như vậy? Tôi biết rằng, đây là chủ đề rất nhạy cảm, bởi vẫn còn rất nhiều người sẽ nói đây là hành động “viết lại lịch sử”. Theo báo Nhân Dân cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì có ba “xu hướng” – Viết lại lịch sử vì cho rằng thiếu chân thực về tư liệu và thiếu hiểu biết về phương pháp. Chỉ được phép ủng hộ xu hướng này. – Viết lại lịch sử để tô vẽ bản thân. – Viết lại lịch sử với mưu đồ chính trị.[1] Vào bài Đối với những người không bao giờ động vào quyển sách, tư liệu đầu tiên họ nghĩ đến đến là Wikipedia. Wikipedia viết về Bùi Thị Xuân, truy cập ngày 30/1/2018 viết Tất cả những điều trên, có thể khiến cho những người hiểu biết nông cạn về lịch sử ngộ nhận những điều trên là chính xác, rằng Bùi Thị Xuân đã có một cuộc đối đáp đậm tính sử thi với vua Gia Long trước khi bị voi giày. Về hình phạt bị voi giày, Wikipedia về Bùi Thị Xuân, truy cập ngày 22/1/2018 viết Tuy nhiên, sau khi đọc lại một vài lần bài trên Wikipedia về Bùi Thị Xuân, có lẽ tất cả mọi người đều thấy có một vấn đề “Trích tài liệu của giáo sĩ De La Bissachère” mà không hề nói đến tài liệu đó là tài liệu nào. Trước hết, ta cần đặt ra câu hỏi Bissachère là ai, và tài liệu đó là tài liệu nào? Tiểu sử của giáo sĩ De La Bissachèrre Pierre-Jacques Lemonnier de La Bissachère sinh khoảng năm 1764 tại Angers. Học đạo. Gia nhập hội Thừa sai hải ngoại Paris. Tháng 3/1790, ông rời Orient, sang Bắc Hà hoạt động ở vùng Nghệ An. Theo Maybon, năm 1795, đạo Chúa ở vùng Nghệ An bị đàn áp, ông phải trốn tránh. Từ năm 1798 đến năm 1799, có những đàn áp mới, Bissachère phải sống chui nhủi khổ cực. Tới năm 1800, tình hình khá hơn, Bissachère trở lại Nghệ An. Khi Gia Long đánh ra Bắc, đầu tháng 7/1802 đến Nghệ An, Giám Mục Castorie và La Bissachère đến chào. Năm 1806, Bissachère bị bệnh, phải về Macao, tại đây, năm sau, ông gặp và trao cho viên sĩ quan kỵ binh Renouard de Sainte-Croix, tập bản thảo Ký sự của ông, trước khi về Anh tỵ nạn Hội Thừa sai Pháp sau cách mạng 1789 phải chạy sang Anh. Tại London, sinh sống khó khăn, ông gặp nam tước Jean Baptiste de Montyon ở Pháp sang tỵ nạn chính trị; có lẽ họ đã trao đổi với nhau về cuốn ký sự này. Năm 1815, Pháp trở lại chế độ quân chủ, Louis XVIII lên ngôi, Bissachère về Pháp, trở thành chuyên gia của chính phủ Pháp về tình hình Á Đông, đặc biệt Việt Nam. Ông mất năm 1830. Trong thời gian Bissachère ở Bắc, vị Giám mục cai quản địa phận Bắc Hà từ năm 1773 đến năm 1823 là Jean Labartette. Ông sinh ở Ainhoa, miền nam Pyrénées ngày 31/1/1744, miền nam Pyrénées; ngày 29/11/1773 đi truyền giáo, được thăng giám mục năm 1774 và mất ở CổVưu, thuộc Quảng Trị ngày 6/8/1823. Theo thư từ ông viết về hội truyền giáo, ta có thể biết đại lược tình hình từ 1773 đến 1785 đạo Gia Tô ở Bắc Hà được an toàn. Từ khi Nguyễn Huệ chiếm được chính quyền ở Phú Xuân, năm 1786, mọi sự thay đổi Nguyễn Huệ không thích tôn giáo nói chung, buộc các sư sãi về nhà, làm ruộng, đi lính, đóng cửa chùa chiền, giáo đường và cho lệnh tìm bắt giáo sĩ. Khi Bissachère đến Bắc Hà trong năm 1790, vua Quang Trung đã đuổi xong quân Thanh và thu phục toàn thể đất Bắc; thời điểm này Phượng Hoàng Trung Đô ở Nghệ An cũng đã xây xong. Lúc đó Bissachère ở trong vùng Nghệ An, chắc chắn phải chịu sự hà khắc đó. Về cuốn Ký sự Bissachèrre Tiếp theo, đầu bài viết đã nêu vấn đề tài liệu của giáo sĩ Bissachère là gì? Đó là cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère Ký sự về Bắc Hà và Nam Hà của ông De La Bissachère– trong bài sẽ gọi tắt là Ký sự. Bìa của cuốn La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine de Mr de la Bissachère, được bán trên Với niềm cảm phục sâu sắc cho Bùi Thị Xuân, Bissachère đã viết những dòng hết sức hâm mộ sự can đảm và dũng mãnh của bà. Tiếp đó, Bissachère “mô tả” cảnh Gia Long làm nhục hài cốt các vua Tây Sơn và cảnh mẹ con Bùi Thị Xuân bị voi giày với những lời giáo đầu như sau Vua Gia Long trở về Kinh đô Nam Hà nghỉ ngơi khoảng hai tháng. Sau đó ông lo việc hành hình tù nhân. Một trong những người đầy tớ mà tôi [Bissachère] gửi vào triều để xin vua cho tôi một giấy phép, ở trong danh sách những người có thể vào cung, đứng trước mặt vua trong một tháng, y làm việc trong ngày xử tội, nên y nhìn thấy rõ từ đầu đến cuối. Khi trở về, y đã kể cho tôi nghe, hôm nay tôi không nhớ hết tất cả quang cảnh cực kỳ kinh tởm này, tôi chỉ kể lại những điều khủng khiếp nhất mà về sau mọi người trong nước Nam đều biết. Nguyên văn tiếng Pháp Le Roy Gia Long étant arrivé à la Capitale de la Cochinchine s’y reposa pendant deux mois ou environ. Ensuite il s’occupa du supplice de ses prisonniers; un de mes gens que j’avais envoyé à la cour, pour m’obtenir une permission du roy et qui fut porté sur la liste de ceux qui pouvoient entrer au palais et se tenir devant Sa Majesté pendant un mois, se trouva de service le jour de l’éxécution, et il la vit tout entière depuis le commencement jusqu’à la fin. A son retour il m’en a fait le récit, je ne puis m’en rappeler aujourd’hui toutes les circonstances qui d’ailleurs sont extrêmement dégoutantes, je ne rapporterai dont ce que je me souviens, ou ce qui m’a frappé le plus du récit qui m’en a été fait et qui depuis a été publique dans tous les états du roy de Cochinchine. Đoạn văn này cho thấy bảy điểm đáng chú ý sau Việc Gia Long hành hình mà Bissachère mô tả sau đó, không phải là ông ta được xem tận mắt, mà là đầy tớ của ông ta kể lại. Người “đầy tớ” này được ông sai vào triều để xin một giấy phép của vua để làm gì, không được ghi rõ. Tại sao “người đầy tớ” của một giáo sĩ, không có chức gì trong triều đình, lại được quyền đứng trước mặt vua trong khoảng thời gian lên đến một tháng? Nếu như ta tạm hiểu rằng, y được phép hầu Gia Long đến một tháng, vậy tại sao nhà vua lại có chung người hầu với một vị giáo sĩ, mà vị giáo sĩ này vừa phải sống lẩn lút trong rừng? Ngay cả Giám mục Labartette, người cai quản giáo phận Bắc hà tương đương với Giám mục Bá Đa Lộc ở trong Nam cũng phải sống lẩn trốn, khi Gia Long chiếm Phú Xuân không dám ra trình diện. Theo thư của Laurent Barisy gửi M. Marchini, ngày 15/7/1801, vua đã sai ông đi kiếm vị thủ lãnh đạo Gia Tô này. Theo Labartette ông ở Huế việc được vua vời ra là một ân huệ lớn. Một giáo sĩ vô danh như Bissachère làm sao có thể “giao thiệp” với vua, chưa nói đến việc gửi đầy tớ vào triều, xin vua này thế này, thế nọ? Bissachère không hiểu nghi lễ triều đình nước Nam, hoặc cố tình viết lừa người Pháp rằng triều đình Việt Nam như chỗ không người, ai vào cũng được. Trong những dòng văn này, “thế lực” của Bissachère lớn đến độ có quyền gửi “đầy tớ” vào cung xin giấy của vua. Ông ta không hề biết là sứ thần các cường quốc Anh, Pháp đến xin yết kiến mà không có quốc thư cũng không được vua tiếp. Việc xử tử không thể xảy ra trong cung palais như tên “đầy tớ” kể lại. Qua bảy điểm nêu trên, chứng tỏ Bissachère bịa chuyện để phô trương sự quan trọng của mình. Sau đó, Bissachere miêu tả việc hành hình Bùi Thị Xuân và con gái “… ông Trần Quang Diệu bị chặt đầu, người con gái tuổi 15, hết sức khả ái, khi cô trông thấy con voi lớn sừng sững tiến đến quật cô, cô hét lên một tiếng thất thanh thê thảm về phía mẹ, nói với bà rằng “Ôi mẹ ơi cứu con với”! Mẹ cô là người đã cầm đầu quân đội, bảo con “Mẹ cứu thân mẹ còn chưa được làm sao cứu nổi con. Con phải chịu chết như cha và cả gia đình, còn hơn sống nhục với những kẻ này…” Nhiều người xem muốn cứu cô gái, đã phải quay mặt đi để khỏi nhìn thấy cảnh cô bị hai lần voi tung lên trời, rơi xuống trúng hai ngà voi đâm thủngKhi đến lượt vị nữ anh hùng, tức vợ của vị Thiếu Phó, bà hiên ngang tiến đến trước voi để kích thích nó. Khi bà đến gần, người ta hét lên bắt bà phải quỳ xuống cho voi dễ quật, nhưng bà không quỳ, bà tiếp tục đi tới; người ta kể rằng, mặc dù con vật bị kích thích mạnh, vẫn phải bắt buộc nó mới ném bà lên, vì nó đã nhận ra bà là một trong những chủ cũ của nó; trước khi bị hành hình, người đàn bà can đảm này đã cho đem vào nhà tù nhiều tấm lụa để quấn chân và thân mình tới ngực, tránh cho thân khỏi bị lõa lồ khi chịu cực hình”. Tranh minh họa Bùi Thị Xuân bị voi giày. Tranh của Phan Thanh Nam. Bỏ qua những chi tiết dư thừa, ta tập trung vào điểm chính Bùi Thị Xuân đã chết như thế nào? Theo Đại Nam thực lục Thực lục, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, ta thấy tên vị nữ tướng này được ghi chép lần cuối cùng là trong cuộc giao chiến ở cửa biển Nhật Lệ vào tháng Giêng năm Nhâm Tuất 1802 với quân của Nguyễn Ánh, đoạn đó như sau Giặc Tây Sơn Nguyễn Quang Toản sai Nguyễn Quang Thùy và tổng quản Siêu phạm lũy Trấn Ninh, tư lệ Đinh Công Tuyết, đô đốc Nguyễn Văn Đằng, đô đốc Lực không rõ họ kết với hơn trăm thuyền của bọn giặc biển Tề Ngôi bày thủy trận ở ngoài cửa biển Nhật Lệ. Vua sai Nguyễn Văn Trương điều bát thủy binh ra biển ngăn ngừa, Pham Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem bộ binh chia đường chống đánh. Giặc đến sát lũy Trấn Ninh. Vua sai quân Túc trực ra ụ bắn ở cửa, bắn giết được hơn một nghìn quân giặc. Giặc đem hết quân đến sát núi Đâu Mâu, bám vào như kiến mà bò lên. Quân ta từ trên núi thả đá xuống, quân giặc bị đè chết rất nhiều. Vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cưỡi voi thúc quân liều chết đánh từ sáng đến trưa chưa chịu lui. Vừa gặp thủy binh của Nguyễn Văn Trương, nhân được gió đông bắc đánh phá quân giặc ở ngoài biển, cướp được 20 chiếc thuyền. Bộ binh giặc nghe tin thủy binh thua, sợ mà tan vỡ. Quang Toản chạy về Đông Cao. Nguyễn Văn Kiên đem quân ra hàng…”. Như thế là sau khi giao chiến với quân của Nguyễn Ánh ở lũy Trấn Ninh, quân Tây Sơn do Bùi Thị Xuân chỉ huy đã bị thất trận và tháo chạy. Từ trận đó về sau, không thấy sử nhà Nguyễn nhắc tới tên của bà nữa. Về việc Gia Long bắt và giết các vua quan, tướng lĩnh nhà Tây Sơn trong khoảng thời gian từ 6/1801-7/1802 đã được Thực lục và Liệt truyện ghi lại. Những người bị bắt và giết trong khoảng thời gian này gồm – Tháng 6/1801, bắt được các tướng Nguyễn Văn Khôn, Hồ Văn Tự ở Quảng Ngãi, giải về Kinh. – Phò mã Nguyễn Văn Trị và Đô đốc Nguyễn Văn Sách bị bắt ở mặt trận Phú Xuân. – Nguyễn Thiếp được trở về Nghệ An. – Các em của Quang Toản là Quang Cương, Quang Tự, Quang Điện và hơn 30 người đàn bà bị đem nộp lấy thưởng tại Quảng Bình. – Đóng cũi Nguyễn Quang Cương, Tham lĩnh Ngoạn, Tham lĩnh Tuân giải về Bình Định. – Quang Tự, Quang Điện và Phò mã Nguyễn Văn Trị bị giải về Gia Định, rồi sai giết đi. – Nội hầu Lê Văn Lợi, Thiếu úy Văn Tiến Thể, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư Bộ Lại Hồ Công Diệu ra hàng. – Tháng 11-12/1801 tháng 11 ÂL, Thực lục ghi “Phá hủy mộ Tây Sơn Nguyễn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu, 31 người, đều bị xử lăng trì và cắt nát thây”. Rồi ra bố cáo “Bắt được con cái tướng tá của Nguyễn Văn Huệ nhiều không kể xiết … Nay đã phá hủy mồ của vợ chồng giặc Huệ, bêu đầu phơi xác. Đồ đảng của chúng bắt được cũng đều giết hết”. – Tháng 4/1802, bắt được cả ba người con của Nguyễn Nhạc là Thanh, Hán và Dũng, sai giết cả. – Tháng 6/1802, bắt được Nguyễn Lân, con Nguyễn Nhạc ở Nghệ An. – 3/7/1803, thiếu úy Đặng Văn Đằng, Đô đốc Đào Văn Hổ đến hàng ở Nghệ An. – Bắt được con Nguyễn Huệ là Quang Bàn cùng Đổng lý Nguyễn Văn Thận ở Thanh Hóa. – Bắt được con Nguyễn Huệ là Thất, Tham đốc Phạm Văn Điềm, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, sai giết cả. – Tháng 7/1802, bắt được Thiếu phó Trần Quang Diệu trên đường thượng đạo Nghệ An. – 13/7/1802, bắt được Tư đồ Võ Văn Dũng, sai đóng xiềng giam lại. – 20/7/1802 ngày Canh Thân 21/6 năm Nhâm Tuất, Gia Long đến thành Thăng Long. Ra lệnh Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta bắt được thì làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về, thì lập tức phái đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu thì xử theo quân pháp.[2] Vua Cảnh Thịnh, như trên đã nói, đã cùng ba em trai Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu cùng ba tướng Văn Dụng, Văn Tứ và đô đốc Tú, đến Xương Giang. Quân bỏ chạy. Nguyễn Quang Thùy thắt cổ tự tử. Những người còn lại bị đóng cũi đưa về Thăng Long. Tháng 11 năm Nhâm Tuất, nhà Nguyễn làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày 30/11/1802, tế thiên địa. Ngày 1/12/1802, tế hiến phù dâng những người bắt được ở Thái Miếu. Thực lục viết Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ, áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và 2 tay 2 chân, rồi cho voi xé xác, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ ngoại sau đổi là Vũ khố. Năm Minh Mạng thứ 2, đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi. Còn đồ đảng là Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cái trong ngoài. Trong bài chiếu gửi toàn dân, có nói rõ tên chức quan tướng bị giết Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng.[3] Bè lũ đầu sỏ ở đây có thể hiểu là một phần hay toàn bộ những người bị bắt đã kể trên. Tướng bị bắt nhưng xét “vô danh” như Đô đốc Đinh Công Tuyết, không nỡ giết. Trên nguyên tắc, người đầu hàng không bị tội, trừ khi, trước đã hàng, sau lại theo Tây Sơn, như Thái bảo Phạm Văn Tham, Phụ chính Trần Văn Kỷ, Tham đốc Phạm Văn Điềm, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, đều bị giết. Và ta không thấy tên Bùi Thị Xuân đâu, vậy có thể bà đã trốn thoát. Đoạn sau bài chiếu ấy, viết rõ hơn “Ngày mồng 6 tháng này 6 tháng 11 năm Nhâm Thân, tức 30/11/1802, tế cáo Trời Đất; ngày mồng 7 7 tháng 11 năm Nhâm Thân, tức 1/12/1802 yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy Thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng. Nhạc, Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân”. Như vậy, bốn người có tội nặng nhất là bốn con của Quang Trung bị voi xé xác. Còn các đại tướng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, … cùng với “bè lũ đầu sỏ”, đều bị chém bêu đầu. Không hề thấy Thực Lục ghi tên Bùi Thị Xuân trong số những vị tướng bị bắt, cũng chẳng thấy tên bà trong danh sách các tướng bị hành hình. Và nếu đọc kỹ cả Thực lục lẫn Liệt truyện về giai đoạn cuối cùng của Trần Quang Diệu cầm quân từ Quy Nhơn về, trèo đèo lội suối, luôn luôn phải phòng bị quân Nguyễn truy kích từ mọi ngả; khi bị bắt, cả quân tướng đều hoàn toàn kiệt sức, không còn chống nổi nữa. Như vậy, khó có thể ông gặp được vợ, và Bùi Thị Xuân có muốn tìm chồng cũng không biết đâu mà kiếm; nhất là khi Thực lục chuyên chép những sự kiện xác thực mà còn chẳng ghi chuyện này. Á Đông có sự kính trọng nhân tài mà người thiển cận như Bissachère không thể hiểu nổi. Như Trần Quang Diệu khi chiếm được thành Bình Định cũng đã khóc trước sự kiên cường của Võ Tánh và làm lễ chôn cất vị anh hùng nhà Nguyễn đã tử tiết rất trọng thể. Bùi Thị Xuân là một con người quả cảm, và đã được sử thần triều Nguyễn mô tả với sự nể phục, thì nếu bà bị hành quyết thì đã có vài dòng trong Thực lục hoặc Liệt truyện ghi lại chuyện đó. Về tội tử hình và các loại hình xử tử, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ Hội điển ghi Có 5 tội hình tội đánh roi, tội đánh trượng, tội đồ, tội lưu, tội xử tử. Tội xử tử lại chia làm 5 loại Có tội giảo, tội trảm và tội lăng trì, cưu thủ, lục thi. Nếu kẻ nào mà tội ác quá nặng, thì đem thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ xét án; còn các tội khác đều đợi đến hạn mùa thu mới đem thi hành án. Giảo là thắt cổ, trảm là chém đầu, lăng trì là xẻo từng miếng thịt, cưu thủ là chém rồi lấy đầu đem bêu, lục thi là băm xác. Như vậy, Gia Long cho thêm tội lục thi là băm xác khi xử tử Tây Sơn trước đó, đời Lê chỉ có giảo, trảm, lăng trì và cưu thủ, và ông đã áp dụng ba loại cực hình sau Đối với các con của Quang Trung Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn, xử án năm voi xé xác dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ đem giã nát rồi vứt đi, còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết, tức là – Lăng trì xử các con Quang Trung, nhưng không cắt từng miếng thịt mà cho 5 voi xé xác. – Lục thi nghiền nát hài cốt của Quang Trung và Thái Đức. – Cưu thủ chém bêu đầu Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng. Không nói gì đến Bùi Thị Xuân. Nếu bà bị tử hình, thì cũng ở trong trường hợp của các đại tướng, tức là chém đầu, không thể ở trong trường hợp xử các con của Quang Trung. Luật Gia Long trong Hội điển không ghi cực hình voi giày. Và trong các hình luật đời trước từ nhà Lê đến nhà Tùy cũng không có lối xử tử này. Các con Quang Trung bị kết án lăng trì, nhưng có lẽ Gia Long thấy hình phạt này quá tàn ác nên thay bằng voi xé xác vì cho voi xé xác thì chết nhanh hơn là lăng trì, xét cho cùng thì những đứa trẻ này không có tội, tội là ở đời cha đời bác chứ không phải là họ. Cực hình voi xé xác không ghi trong luật, nhưng trường hợp này cho thấy tương đương với lăng trì. Bùi Thị Xuân chỉ là tướng, không thể bị xử nặng hơn chồng, nghĩa là không thể ngang hàng với các con của Quang Trung. Bissachère là một con người hồ đồ, thích khoe khoang và thiếu hiểu biết về văn hóa Á Đông mà có khi ông còn không hiểu nổi đến cả văn hóa Pháp của ông. Cần phải nhắc lại cho Bissachère về tội tử hình của cả nước Pháp nữa, vì có lẽ ông cũng không biết đến các hình thức này. Trước cách mạng Pháp 1789, có những cách xử tử sau la potence treo cổ, la bucher đốt, la roue nghiền xay bánh xe, l’écartèlement xé xác bằng ngựa, tức tứ/ngũ mã phanh thây, còn décapitation chém chỉ dành cho giới quý tộc. Sự nghiền xay bằng bánh xe, sự đốt cháy và ngựa xé xác còn độc ác hơn cả voi xé xác. Về sự hồ đồ, chúng ta dễ nhận thấy những dòng viết về Bùi Thị Xuân của ông. Đồng ý, rằng ông rất kính trọng bà, và bản thân tôi cũng vậy, nhưng đến nỗi tô hồng hình tượng của bà đến mức bôi nhọ cả Gia Long như vậy, thực sự rất bất hợp lý. Tiếp đến là về tính thích khoe khoang của giám mục. Ông đã khoe khoang với Montyon và được Montyon ghi lại như sau Ông Bissachère đã sống 18 năm ở Bắc Hà và Nam Hà, đã đi hầu hết khắp nơi trên đất nước này và các nước lân cận; ông nghe và nói được tiếng và đã có quan hẹ với tất cả mọi tầng lớp dân chúng ở đây. Là vị cha thực tế, tâm giao, cố vấn của giáo dân, khá nhiều trong xứ này, ông giao thiệp với những nhân vật hàng đầu của quốc gia, ông thường hội họp với các quan, chinh ông cũng có văn bằng làm quan; theo lệnh của triều đình, ông có những người Bắc phục dịch riêng cho ông; nhiều lần ông được bệ kiến hoàng đế. Bissachère trốn chui trốn lủi qua các đợt đàn áp đạo giáo 1795, 1798, 1799 dưới triều Cảnh Thịnh, vậy ông đã làm quan dưới triều vua nào? Khi Gia Long ra Bắc qua Nghệ An, bề trên của ông là giám mục Labarbette chức vụ của ông ở miền Bắc tương đương Bá Đa Lộc ở miền Nam còn đi trốn vì chưa biết thái độ Gia Long với đạo thế nào, nói gì đến một giám mục vô danh tiểu tốt như Bissachère. Cuối cùng, về độ thiếu hiểu biết văn hóa của Bissachère. Đáng nhẽ ra sống 18 năm ở nước ta, Bissachère phải hiểu biết văn hóa Việt hơn cả Dan Hauer. Nhưng không. Khi các tướng tài bị bắt, họ thường được dụ hàng, không dụ hàng được mới xử tử. Trong thời gian nội chiến, có những tướng của Nguyễn Ánh sang phe Tây Sơn và ngược lại. Trần Quang Diệu khi chiếm được thành Bình Định, ông đã khóc trước thi hài Võ Tánh trước đó Võ Tánh đã tử tiết để đảm bảo an toàn cho quân Nguyễn rồi làm lễ chôn cất vị anh hùng nhà Nguyễn rất trọng thể. Kết luận Đoạn kết cuộc đời nữ tướng Bùi Thị Xuân như thế nào, tôi đã trình bày ở trên. Không hề có chuyện bà bị voi giày, và cũng chẳng hề có cuộc đối đáp đậm chất sử thi với Gia Long như những gì mà giám mục Bissachère viết cả. Vì vậy, tôi tạm đi đến kết luận, Bùi Thị Xuân đã mất tích. Việc bà đã qua đời như thế nào hiện vẫn còn là một nghi vấn lịch sử. Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 2018. Tài liệu tham khảo Chương 3 và chương 9 sách Vua Gia Long và người Pháp, NXB Hồng Đức, 2017. Chú thích [1] “ĐEM SO VỚI CHÚA CÔNG TA, NGƯƠI CHỈ LÀ NƯỚC VŨNG SO VỚI AO TRỜI” ————————- Chuyện kể lại rằng, sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, bà Bùi Thị Xuân cũng bị quân Nguyễn bắt, giải về Phú Xuân để trị tội. Khi hay tin, nữ danh tướng của Tây Sơn đã bị giải đến, Nguyễn Ánh đắc chí mà đến hỏi bà rằng “Ta và Nguyễn Huệ ai hơn?”. Đáp lại câu hỏi đầy thách thức của Nguyễn Ánh, bà chỉ khinh khỉnh mà đáp “Chúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, làm tan nát cả sơn hà, cũng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng”, đồng thời ném cho Nguyễn Ánh một ánh mặt khinh bỉ. Trước câu trả lời mỉa mai của bà, Nguyễn Ánh gằn giọng, đành phải lái câu chuyện từ Quang Trung sang Bùi Thị Xuân mà chất vấn “Ngươi có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?”. Bà đáp “Nếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà…”. Khi Nguyễn Ánh hỏi bà có muốn ân xá không, nữ tướng đã nói dõng dạc “Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ mình trước một kẻ tiểu nhân đắc thế?”. Nguyễn Ánh nghe thấy thế, vô cùng căm phẫn, thù cũ nợ mới đã chồng chất và Bùi Thị Xuân đã phải chịu hình phạt đau đớn nhất, đó là bị voi giày đến chết. Hưởng thọ 50 tuổi. VẺ ĐẸP BẤT TỬ TRONG CÁI CHẾT CỦA BÀ BÙI THỊ XUÂN Giáo sĩ người Pháp De La Bissachère, người có dịp chứng kiến cuộc hành hình đã mô tả cái chết của nữ tướng Bùi Thị Xuân trong cuốn ký sự “Relation sur le Tonkin et la Cochinchine” xuất bản năm 1802 như sau Đứa con gái trẻ của bà bị lột hết y phục. Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bùi Thị Xuân nghiêm mặt trách Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!… Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể nên tránh khỏi sự lõa lồ, bà không đổi sắc tiến đến trước con voi như chọc tức nó. Mấy võ quan thét la om sòm bắt bà quỳ xuống. Bà cứ thản nhiên tiến bước. Đến trước đầu voi, bà hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo, đâm cây nhọn sau đùi con vật để nó trở nên hung tợn. Nó chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời… Nhưng trái với lệ thường, con voi không chà đạp phạm nhân như mọi lần mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo… Cảm phục tinh thần của Bùi Thị Xuân, một tác giả khuyết danh đã làm bài thơ Bùi nữ tướng, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Nội dung bài thơ như sau “Vận nước đang xoay chuyển Quần thoa cũng vẫy vùng Liều thân lo cứu chúa Công trận quyết thay chồng. Khảng khái khi lâm nạn! Kiên trinh lúc khốn cùng Ngàn thu gương nữ liệt Gương sáng hãy soi chung“. ————————- [VOV2] - Bùi Thị Xuân là một nữ tướng thời Tây Sơn. Bà là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Đô đốc Bùi Thị Xuân là người huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Theo nhà sử học Lê Văn Lan, Đô đốc Bùi Thị Xuân chính là một trong số những nữ anh hùng kiệt xuất nhất, với những chiến công hiển hách được lưu truyền trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc "Ngay từ thời thiếu nữ, Bùi Thị Xuân đã là người có thiên hướng về võ nghệ và bà đã thực hiện chí hướng ấy của mình bằng cách rất chăm tập luyện võ nghệ. Thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân chính là vị quan đô thống nổi tiếng thời bấy giờ Ngô Mãnh. Với tài năng võ nghệ và với sự luyện rèn thì không lấy làm lạ khi phong trào Tây Sơn khởi dấy, Bùi Thị Xuân đã nhanh chóng trở thành nữ tướng dưới cờ của Tây Sơn tam kiệt. Và ngay từ khi cùng chồng là Trần Quang Diệu tham gia phong trào nghĩa quân Tây Sơn từ năm 1771 thì với tư cách là nữ tướng, Bùi Thị Xuân còn được nhận thêm 1 danh hiệu nữ tướng nữa ngoài danh hiệu Nữ tướng áo đỏ, đó là danh hiệu Nữ tướng "Tượng binh". Cũng theo nhà sử học Lê Văn Lan, không chỉ dũng cảm, có tài sử dụng song kiếm, cưỡi ngựa bắn cung khi ra trận, nữ tướng Bùi Thị Xuân còn có biệt tài huấn luyện voi trận. Dưới quyền Đô đốc Bùi Thị Xuân có 5000 nữ binh và 200 thớt voi. Lực lượng tượng binh và nghệ thuật đánh trận bằng voi chiến là nét đặc sắc có một không hai của phong trào Tây Sơn cũng như lịch sử quân sự nước Việt thời đó "Tài võ nghệ của Bùi Thị Xuân lúc bấy giờ có chỗ để phô diễn ở việc luyện rèn và tổ chức nên 1 đội quân đặc biệt của nghĩa quân Tây Sơn, đó là voi chiến tượng binh. Tài liệu còn nói rõ đội tượng binh do Bùi Thị Xuân quản lý luyện rèn rất cẩn thận và tài năng chiến trận, khả năng sung sát cực kỳ lợi hại và đặc biệt đông đúc với số lượng 100 con voi". Tài năng của nữ tướng Bùi Thị Xuân còn thể hiện vào năm 1773, khi chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Nhạc cùng Nguyễn Huệ mở rộng địa bàn đem toàn quân xuống đánh Quy Nhơn thì Bùi Thị Xuân một mình ở lại trông giữ và bảo vệ Hoàng thành. Về sự kiện này, Nguyễn Đức Nhuệ thông tin Có một sự kiện rất quan trọng là năm 1785, Nguyễn Ánh xin viện trợ từ Thái Lan tức là Xiêm 5 vạn quân đã theo chân Nguyễn Ánh về để chống lại Tây Sơn và Nguyễn Huệ đã bố trí một trận đánh trên sông Rạch Gầm - Xoài Mút rất nổi tiếng tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm. Trong trận đó nhiều tư liệu xác minh là bà Bùi Thị Xuân cùng ông Trần Quang Diệu đã phụ trách mũi bộ binh để tấn công vào quân Chu Tăng, Chu Xương của Xiêm". Không chỉ giỏi giang võ nghệ, Bùi Thị Xuân còn thể hiện lòng thương dân khi được cử làm Trấn Thủ trấn Quảng Nam. Bà mở kho phát chẩn, trừng trị bọn cường hào và giúp cho dân được an cư lạc nghiệp, nên rất được lòng dân cảm phục. Nguyễn Đức Nhuệ cho biết Bùi Thị Xuân được đánh giá là 1 trong 10 nữ tướng, 10 hiện tượng đặc biệt của phụ nữ Việt Nam thời kỳ bấy giờ. Đối với vị Đô đốc này thì có lẽ là không có sử sách nào có thể mô tả hết được tinh thần, sự đóng góp, nhiệt huyết cho phong trào Tây Sơn. Một là bà đã từng được giao giữ chức Trấn thủ Quảng Nam trong thời điểm dân cư loạn lạc, đói kém, bà đã tổ chức sản xuất, chiêu tập nhân dân mở mang cày cấy, thành lập xóm làng trở nên một vùng rất an cư, lạc nghiệp… Năm 1801 khi Thiếu phó Trần Quang Diệu đưa đại quân từ Phú Xuân vào vây hãm và đánh hạ thành Quy Nhơn của chúa Nguyễn Ánh thì nữ tướng Bùi Thị Xuân ở lại kinh thành hộ giá vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Khi Nguyễn Ánh đưa thủy quân vòng qua Quy Nhơn bất ngờ đánh thẳng vào Phú Xuân, quân Tây Sơn ở đây chống cự không nổi, Bùi Thị Xuân đã phải đưa vua Cảnh Thịnh chạy thẳng ra Thăng Long. Mùa Xuân năm 1802, sau một năm củng cố lực lượng, Đô đốc Bùi Thị Xuân đã cùng vua Cảnh Thịnh đưa quân vào để mưu việc lấy lại Phú Xuân nhưng bất thành. Đô đốc Bùi Thị Xuân anh dũng hy sinh khi 45 tuổi. Bà là một vị nữ anh hùng đã xây dựng nên triều đại Tây Sơn. Hiện nay, tại nhiều thành phố ở nước ta, tên bà được lấy để đặt tên cho những con đường và các trường học như một cách tỏ lòng tôn kính, ngưỡng mộ với vị nữ tướng tài ba. Thân thế và sự nghiệp Hết lòng vì nhà Tây Sơn Bị voi giày Được ca ngợi Có tấm lòng thương dân Không vì tình riêng Nỗ lực đến giây phút cuối cùng Bại trận vẫn hiên ngang Kết Trùng tên Xem thêm Tham khảo Chú thích Bùi Thị Xuân Tượng Đô đốc Bùi Thị Xuân trong Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt Bảo tàng Quang Trung, Bình Định Tên bản ngữ 裴氏春 Sinh 1771 Mất 1802 Nguyên nhân mất Gia Long xử tử Quốc gia Việt Nam Quốc tịch Việt Nam Nghề nghiệp Đô đốc Kỷ nguyên Triều đại Tây Sơn Nổi tiếng vì nữ đô đốc trong triều đình Tây Sơn Quê quán thôn Xuân Hòa nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định Đảng phái chính trị Tây Sơn Phong trào chính trị khởi nghĩa Tây Sơn Đối thủ Nguyễn Ánh Phối ngẫu Thái phó Trần Quang Diệu Con cái Trần Thị Cúc Bích Xuân Cha mẹ Bùi Đắc Chí Bùi Thị Xuân chữ Hán 裴氏春; 17711 -1802 là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư2 , là vợ Thái phó Trần Quang Diệu và là một Đô đốc của vương triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. Thân thế và sự nghiệpBùi Thị Xuân là người ở thôn Xuân Hòa nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.Bà là con gái của Bùi Đắc Chí. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền, nàng là người có nhan sắc, khéo tay và viết chữ đẹp. Đến khi theo học võ với Đô thống Ngô Mạnh, bà cũng nhanh chóng thành thạo, nhất là môn song kiếm. Nhờ vậy sau này, người con gái này đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. Hết lòng vì nhà Tây SơnVới tài nghệ ngoài tài kiếm thuật, bà còn giỏi bắn cung, cưỡi ngựa và luyện voi cộng với lòng dũng cảm, Bùi Thị Xuân cùng chồng nhanh chóng trở thành những tướng lĩnh trụ cột, góp công lớn trong công cuộc dựng nghiệp của nhà Tây Sơn ngay từ buổi tài liệu, trong trận đại phá quân Mãn Thanh vào đầu xuân Kỷ Dậu 1789, bà chỉ huy đội tượng binh của đạo Trung quân do vua Quang Trung Nguyễn Huệ chỉ huy 3 .Trong những năm tiếp theo, bà cùng chồng cầm quân đi đánh dẹp các phe chống đối vương triều mới nhà Tây Sơn, trong số đó có lực lượng của hoàng thân nhà Lê là Lê Duy Chỉ cấu kết với Tù trưởng Bảo Lạc Hà Tuyên...Giữa lúc nhà Tây Sơn đang từng bước ổn định tình hình trong nước, ngày 29 tháng 7 năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời. Kể từ đấy vương triều này bắt đầu suy yếu do vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản còn nhỏ, lại bị người cậu ruột là Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên gian này, Bùi Thị Xuân được cử vào trấn thủ Quảng Nam, còn chồng bà Trần Quang Diệu thì được cử vào Diên Khánh chống ngăn quân Nguyễn. Đến khi nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên bị tướng Võ Văn Dũng bắt giết, Trần Quang Diệu cả sợ, phải kéo quân về kinh đô đóng ở bờ Nam sông An Cựu, thì bà cũng nhận được lệnh hồi mật thám báo tin nội bộ nhà Tây Sơn đang lục đục, chúa Nguyễn Phúc Ánh liền tổ chức ngay những cuộc tấn công. Nhưng quân Nguyễn vừa tiến vào thành Quảng Nam, thì bị đánh một trận tơi bời. Tức tối vì thua mưu trí đàn bà, chúa Nguyễn thề sẽ sớm rửa mối nhục4 . Thấy Chúa Nguyễn rút lui hết, đến lúc ấy, Bùi Thị Xuân mới kéo quân về Phú Xuân để cùng chồng dàn xếp việc triều chính...Mùa xuân năm 1802, vua Cảnh Thịnh sai em là Nguyễn Quang Thùy vào trấn giữ Nghệ An, còn tự mình cầm quân đi đánh chiếm lại Phú Xuân. Trong chiến dịch này, Bùi Thị Xuân được lệnh đem quân đi hộ thế trận ngày càng bất lợi, Bùi Thị Xuân cưỡi voi liều chết đánh riết vào lũy Trấn Ninh, nơi Nguyễn Phúc Ánh đang cố thủ, từ sáng đến chiều, máu và mồ hôi ướt đẫm áo giáp. Rồi bà còn giành lấy dùi tự tay thúc trống liên hồi. Lúc bấy giờ chúa Nguyễn cùng tướng tá đã hốt hoảng vội chia quân vượt sông Linh Giang đánh bọc hậu hòng mở đường máu thoát thân. Nào ngờ vua Cảnh Thịnh thấy quân Nguyễn tràn qua nhiều, tưởng nguy khốn liền cho lui binh. Bùi Thị Xuân bèn nắm áo ngự bào của nhà vua để khuyên cố đánh. Nhưng khi nghe tin tướng Nguyễn Văn Trương phá tan thủy binh Tây Sơn ở cửa biển Nhật Lệ Quảng Bình, cướp được hầu hết tàu thuyền và tướng giữ cửa Nguyễn Văn Kiên cũng đã đầu hàng; thì đội quân của bà hốt hoảng bỏ cả vũ khí, đạn dược để tháo chạy...Đây có thể nói là trận chiến đấu oanh liệt cuối cùng của bà để hòng cứu vãn tình thế. Nhưng ngờ đâu nhà Tây sơn, sau trận này thêm trượt dài trên đà suy vong, không sao gượng lại được nữa...5 Bị voi giàyĐược tin đại quân Tây Sơn thua to ở Trấn Ninh, Tư đồ Vũ Văn Dũng và chồng Bùi Thị Xuân là Thái phó Trần Quang Diệu, dù biết không thể giữ được Quy Nhơn, nhưng vẫn gắng gượng đến tháng 3 cùng năm trên mới rời bỏ thành, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, ý là để hội quân với vua Cảnh Thịnh cùng lo chống gia C. B. Mabon kểTrần Quang Diệu cùng vợ và con gái, dẫn theo một số tàn quân chạy ra Bắc bằng đường thượng đạo Ai Lao. Đến châu Quy Hợp, Diệu xuống Hương Sơn thì biết tin Nghệ An đã mất. Quân sĩ của Diệu bỏ cả rồi, mấy hôm sau vợ chồng Quang Diệu đều bị bắt cả...Vua Cảnh Thịnh cùng hai em và vài tướng tá vượt qua sông Nhị Hà, tính trốn lên vùng Thượng du cũng bị dân chúng bắt và đóng cũi nộp cho quân Nguyễn...6 Trước khi trích dẫn tài liệu của một giáo sĩ phương Tây tên là De La Bissachère người có dịp chứng kiến buổi hành hình được viết năm 1807, mô tả lại cái chết của mẹ con bà Bùi Thị Xuân, sử gia Phạm Văn Sơn đã có lời giới thiệu như sauMẹ con bà Bùi Thị Xuân, người ta ý nói đến vua Gia Long cũng rất căm thù, nên cũng dùng hình phạt dã man nhất. Nguyên nhân là bà đã điều khiển binh sĩ đánh vào lũy Trấn Ninh hết sức kịch liệt, đã làm cho chúa Nguyễn và các tướng sĩ có phút phải thất thần, tưởng chừng nguy khốn đến tài liệu của giáo sĩ De La BissachèreĐứa con gái trẻ của bà Bùi Thị Xuân Một thớt voi từ từ tiến đến. Cô gái biến sắc rồi mặt trắng bệch như tờ giấy. Nàng ngoảnh nhìn mẹ, kêu thất thanh. Bà Xuân nghiêm mặt trách Con phải chết anh dũng để xứng đáng là con của ta!...Đến lượt bà, nhờ lớp vải ở bên trong quấn kín thân thể, nên tránh khỏi sự lõa lồ. Và bà rất bình thản bước lại trước đầu voi hét một tiếng thật lớn khiến voi giật mình lùi lại. Bọn lính phải vội vàng bắn hỏa pháo,đâm cây nhọn sau mông con vật để nó trở nên hung tợn, chạy bổ tới, giơ vòi quấn lấy bà tung lên trời...Nhưng trái với lệ thường, nó không chà đạp phạm nhân như mọi bận mà bỏ chạy vòng quanh pháp trường, rống to lên những tiếng đầy sợ hãi khiến hàng vạn người xem hoảng hốt theo...7 Được ca ngợiCông luận bình phẩm, hầu hết đều khen ngợi oai danh và tiết tháo của Bùi Thị Xuân. Theo sử liệu, sở dĩ được vậy là vì trong cuộc đời bà có mấy sự việc đáng chú ý sau Có tấm lòng thương dânGặp năm mất mùa, nhiều phủ huyện ở trấn Quảng Nam sinh loạn, quan quân địa phương không kiềm chế nổi. Triều thần lập tức tiến cử Bùi Thị Xuân ra nơi đó làm Trấn thủ. Đến nơi, bà tự mình đi thị sát khắp các hạt, rồi cho mở kho phát chẩn. Thấy viên quan nào chiếm công vi tư, ăn của hội lộ...bà đều thẳng tay cách chức, chọn người tài đức lên thay. Ngoài ra, bà còn ra lệnh bãi bỏ các cuộc truy lùng những nhóm người nổi dậy, và mạnh dạn ra tuyên cáo rằng Ai vác cày bừa, nông cụ thì được coi là dân lành...Vì thế nạn trộm cướp và chống đối ở Quảng Nam nhất là ở huyện Quế Sơn nhanh chóng chấm dứt, dân chúng lại được yên ổn làm ăn...8 Không vì tình riêngThái sư Bùi Đắc Tuyên, người làng Xuân Hòa huyện Tuy Viễn, là cậu của vua Cảnh Thịnh, và là chú của Đô đốc Bùi Thị Xuân. Năm 1795, vì ông bị Võ Văn Dũng giết chết vì tội chuyên quyền. Bấy giờ, có nhiều người nghi ngại Bùi Thị Xuân, vì bà là cháu ruột của Đắc Tuyên. Nhưng khác với những gì xầm xì, bà đã không hề thù oán người giết chú ruột mình, cũng như lợi dụng sự rối ren đó mà đi theo đối phương hay tìm nơi cát cứ...9 Nỗ lực đến giây phút cuối cùngĐề cập đến tinh thần quyết chiến thắng của Bùi Thị Xuân trong trận Trấn Ninh 1802, trong bài thơ dài Bùi phu nhân ca của danh sĩ Nguyễn Trọng Trì 1854-1922 có đoạn Xuân hàn lãnh khí như tiễn đaoXuân phong xuy huyết nhiễm chinh bàoHoàng hôn thành dốc bi già độngHữu nhân diện tỷ phù dung kiềuPhu cổ trợ chiến Lương Hồng NgọcMộc Lan tòng quân Hoàng Hà KhúcThùy ngôn cân quắc bất như nhân ?Dĩ cổ phương kim tam đinh túc. Nghĩa làKhí xuân lạnh như khí lạnh nơi lưỡi dao bén thoát xuân thổi máu bay đẫm tấm chinh bàoNơi góc thành tiếng tù và lay động bóng hoàng hônCó người dung nhan kiều diễm như đóa hoa phù dungThật chẳng khác Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến cho ba nàng Mộc Lan xông trận nơi sông Hoàng HàAi bảo khăn yếm không bằng người ?Từ xưa đến nay vững vàng thế ba chân Bại trận vẫn hiên ngangNgoài thái độ hiên ngang khi bị hành hình, người ta còn truyền rằng khi nghe Bùi Thị Xuân bị bắt, chúa Nguyễn bèn sai người áp giải đến trước mặt rồi hỏi với giọng đắc chíTa và Nguyễn Huệ ai hơn?Bà trả lờiChúa công ta, tay kiếm tay cờ mà làm nên sự nghiệp. Trong khi nhà người đi cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Tàu làm tan nát cả sơn hà, cùng đều bị chúa công ta đánh cho không còn manh giáp. Đem so với chúa công ta, nhà ngươi chẳng qua là ao trời nước vũng. Còn nói về đức độ, thì Tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế, như đã đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. Còn ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với bậc nghĩa liệt, đã hết lòng vì chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người là khuyến khích tôi mình trung với mình. Chỗ hơn kém rõ ràng như ban ngày và đêm tối. Nếu Tiên đế ta đừng thừa long quá sớm, thì dễ gì nhà ngươi trở lại đất nước Nguyễn gằn giọngNgười có tài sao không giữ nổi ngai vàng cho Cảnh Thịnh?Bà đápNếu có một nữ tướng như ta nữa thì cửa Nhật Lệ không để lạnh. Nhà ngươi khó mà đặt chân được tới đất Bắc Hà...11 KếtBộ đồ thờ giản dị tại từ đường họ Bùi. Cổ vật hiện được trưng bày trong Bảo tàng Quang Trung Bình Định, Việt Nam.Sử gia Phạm Văn Sơn, viếtNgười ta cảm phục Bùi Thị Xuân chẳng riêng chỗ bà có nhan sắc hơn người, mà còn ở chỗ có gan dạ và trí lược của một đại tướng. Người ấy đã có công gây dựng một phần sự nghiệp của chồng và của ba anh em vua Tây Sơn, đã bao phen xuất nhập chiến trường, vào sinh ra tử...12 Giáo sư sử học Nguyễn Khắc Thuần, viếtTrong khởi nghĩa Tây Sơn nói riêng và trong lịch sử quân sự Việt Nam nói chung, Bùi Thị Xuân là một hiện tượng rất đặc biệt. Cùng với chồng và hàng vạn các nghĩa sĩ Tây Sơn, bà đã đi suốt cả một cuộc trường chinh ba chục năm trời, anh dũng chống cả thù trong lẫn giặc ngoài, một lòng một dạ vì sự nghiệp cứu dân cứu nước. Từ một phụ nữ bình thường, Bùi Thị Xuân đã trở thành một danh tướng được đời đời kính trọng...13 Cảm phục bà, một người không rõ tên, đã làm bài thơ sauVận nước đang xoay chuyểnQuần thoa cũng vẫy vùngLiều thân lo cứu chúaCông trận quyết thay khái khi lâm nạn!Kiên trinh lúc khốn cùngNgàn thu gương nữ liệtGương sáng hãy soi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài bút ký Còn mãi đến bây giờCác gia đình họ Bùi hiện còn ở làng này đều là phái nhánh, còn phái chánh tức phái của Bùi Thị Xuân đã bị Gia Long giết sanh ở ấp Xuân hòa, nay gọi là Phú Xuân. Lớn lên, bà đi học võ nghệ với một võ sư người việt ở Thuần Truyền. Lò võ đó nổi tiếng từ thời Lê đến nay. Môn sinh rất đông, cả nam lẫn nữ và bà làm trưởng môn. Ít lâu sau ngày Tây Sơn khởi nghĩa, bà dẫn cả đoàn võ sinh đến tòng quân, theo Nguyễn Huệ đánh Đông dẹp Bắc, sự nghiệp lừng lẫy. Ở bên Phú An nay hãy còn một đám đất gọi là Trường Võ, đó là nơi bà mở trường dạy võ nghệ cho các nghĩa sĩ trong quân đội Tây ấy, bà Bùi Thị Xuân còn là một nữ tướng trẻ tuổi, xinh đẹp. Ngoài tài năng võ nghệ, cầm binh, huấn luyện voi rừng nghe đâu dãy gò Dinh, sông Côn là bãi tập voi của bà...bà còn giỏi cả việc đi buôn trầu ở An Khê, có tài thuyết phục người ở miền Thượng hơn cả Nguyễn Nhạc, giỏi cả việc khai hoang, làm thủy lợi như biến lòng một con suối khô, chỉ toàn là cát đá thành vùng đất màu mỡ "nhất đẳng điền" tên là ruộng Trại, rộng hơn hai chục hécta để lấy lúa nuôi quân...Để đến nhà bà, chúng tôi đi thêm một quãng đường làng, rẽ vào một xóm nhỏ gồm ba bốn túp nhà xúm xít trên một khu đất chật chội, dừng lại trước một căn nhà hoang vắng. Đó chỉ là một căn nhà nhỏ, quá nhỏ đến không ngờ, nhà rường ba gian nhưng tất cả chỉ rộng độ 5 mét, nên 2 gian bên bị ép lại thành hai cái chái chật chội chỉ vừa đủ đặt một chiếc chõng đơn cho một người nằm...Đồ đạc không còn lại gì, ngoài một chiếc tủ gỗ mộc, phía dưới có những ngăn kéo, hình như xưa dùng để đựng quần áo. Tất cả chỉ có thế, từ thế kỷ 18 cho đến bây giờ!...14 Trùng tênGiống như trường hợp của Ngô Văn Sở, cũng có một nhân vật nữ tên là Bùi Thị Xuân làm quan cho triều Nguyễn Gia Long, bà này được phong là Đệ Nhất Huân Thần của triều Nguyễn. Xem thêm Trận Trấn Ninh 1802 Trần Quang Diệu Tham khảo Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 4. Tủ sách sử học Việt Nam xuất bản, Sài Gòn, 1961. Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992. Nguyễn Đắc Xuân, Khí phách Bùi Thị Xuân in trong Hương giang cố sự. Tủ sách Sông Hương xuất bản, 1986. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Namtập 3. Nhà xuất bản Giáo dục, 2005. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tuyển tập tập 2. Nhà xuất bản Trẻ, 2002. Quách Tấn- Quách Giao, Nhà Tây Sơn. Bảo tàng Quang Trung Bình Định xuất bản, 2002. Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3. Nhà xuất bản Trẻ, 2007. Quỳnh Cư, Đô đốc Bùi Thị Xuân. Nhà xuất bản Phụ nữ, 1982. Lê Minh Quốc, Các vị nữ danh nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Thu Hằng, Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam. Nhà xuất bản Lao động, 2008. Chú thích ^ TS. Đinh Văn Liên ghi Bùi Thị Xuân sinh năm 1752 Bình Định-Đất võ trời văn. Nhà xuất bản Trẻ, 2008, tức khi bị hành hình bà mới 50 tuổi. Song theo Gia phả họ Nguyễn ở làng An Hải, thì Trần Quang Diệu sinh năm 1760. Vậy có thể bà cũng chỉ sinh ở khoảng thời gian này. Gia phả còn ghi rằng tên tục của bà là Út, tên thường gọi là bà Siêu, vì chồng bà từng được phong tước Siêu võ hầu theo Bùi Xuân, bài viết in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu do Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh An Giang và UBND thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức và ấn hành năm 2009, tr. 168. ^ Theo "Cân quắc anh hùng truyện" của danh sĩ Nguyễn Bá Huân thì Nguyễn Huệ còn ban hiệu cho bà là Anh hùng cân quấc Cân quắc khăn trùm đầu của phụ nữ, chỉ người phụ nữ. Truyện này có in trong Bắc Bình Vương do Phạm Minh Thảo soạn Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 2008. ^ Theo Hỏi đáp lịch sử Việt Nam tập 3, tr. 268. Trong sách Nhà Tây Sơn, thi sĩ Quách Tấn quê ở Tây Sơn còn cho biết ở trận Rạch Gầm-Xoài Mút đánh tan 20 vạn quân Xiêm La, Trần Quang Diệu-Bùi Thị Xuân cũng đã lập đại công. Vợ chồng ông điều khiển bộ binh, tướng Võ Văn Dũng cùng Nguyễn Huệ chỉ huy thủy quân tr. 97. Tuy nhiên, thông tin này chưa được kiểm chứng và cũng chưa tìm thấy ở tài liệu khác. ^ Theo Các vị nữ danh nhân Việt Nam, tr. 68. ^ Xem nguồn tham khảo và thông tin chi tiết tại trang Trận Trấn Ninh 1802. ^ Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên quyển 4, tr. 239. ^ Chép theo đoạn trích in trong Việt Sử tân biên quyển 4, tr. 245-246. Theo Thiên Nam nhân vật chí, bà bị xử lăng trì, thi hài bị thiêu rụi... Tác giả Đặng Duy Phúc trong sách Việt Nam anh kiệt Nhà xuất bản Hà Nội, năm 2004 cho biết thêm chi tiết Khi voi đưa chân toan chà đạp, bà đã thét lên một tiếng như sấm dậy khiến voi thất kinh phải thối lui, không chịu theo sự điều khiển của quản tượng. Cuối cùng, vua Nguyễn lệnh cho dùng hình phạt cột bà vào trụ sắt, lấy vải nhúng sáp nóng quấn khắp người bà rồi đốt cháy một cách man rợ... ^ Kể theo Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam, tr. 77. ^ Kể theo GS. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục, 2005, tr. 292-293. ^ Chép theo Nhà Tây Sơn, tr. 193-194. ^ Kể theo Nhà Tây Sơn, tr. 201-202. ^ Việt sử tân biên quyển 4, tr. 245. ^ Danh tướng Việt Namtập 3, tr. 291. ^ Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 2, tr 242 và 247. Nguồn Wikipedia “Hỏa tượng” là tên của nó, “Hỏa tượng” là cách người ta tạo ra nó, và “Hỏa tượng” cũng chính là cách mà nó chết đi. Người ta dùng kim loại nóng chảy xăm chàm lên mình voi, vẽ thành những hoa văn trác tuyệt, những lời nguyền cổ xưa, những câu thần chú đã thất truyền. Để rồi, khi voi bị thiêu sống, vết chàm kia sẽ sáng rực một lần nữa, cuồn cuộn trong ánh lửa, đẹp đẽ vô cùng. Và người ta chỉ chú tâm ngắm nhìn kiệt tác mà quên đi nỗi đau của nó, một con voi tội nghiệp. * Nó là con voi trắng lớn nhất vùng rừng núi Tây Sơn thượng đạo này, lớn hơn cả những con voi huyền thoại của xứ Vạn Tượng, Bồn Man, Xiêm La hay Miến Điện. Nó là một vị thần. – Nó là vị thần bảo vệ núi rừng. – Không, nó là ác thần, nó đã giết chết tám người trong bản rồi. – Nó là nô bộc của thần Lửa, chúng ta phải thiêu sống nó hiến tế cho thánh thần! Vậy là, vị già làng người Gia Rai huy động tất cả những thầy luyện voi giỏi nhất, những chiến binh ngoan cường nhất, bày đủ mọi mưu mẹo, sắp đủ các loại bẫy quyết bắt sống con voi trắng đơn độc kia. Nhưng đều vô ích, nó khôn ngoan như một con cáo, thoắt ẩn thoắt hiện giữa rừng già chẳng thể dò la ra hành tung. Cả nhóm truy đuổi đến kiệt sức, sau đó hạ trại trên đỉnh núi quan sát tình hình. Rừng rậm trùng điệp ẩn chứa bao hiểm nguy. Bóng dáng con voi vẫn mất hút trong sương mù. Trời chập tối, ánh trăng tròn vạnh và nhuốm đỏ, vị già làng như linh cảm được điềm xấu nhưng không sao lý giải nổi. – Xem ra tối nay có đổ máu… Vị già làng ngồi nhìn ngọn lửa, nỗi bất an ngày càng lớn, đêm dài thăm thẳm. Con voi đã đi đâu? Hay còn quanh quẩn ở đây? Những tráng sĩ người Gia Rai hì hục mài giũa binh khí thật sắc bén. Dòng sông loang loáng chảy ngang vùng thung lũng hẹp. Tiếng gà gáy thao thức không yên. Đến nửa đêm thì già làng thất thần tỉnh giấc, sững người một lúc lâu nghe ngóng tình hình, sau đó thúc giục mọi người mau chóng chạy về làng. Băng ba con suối, vượt bốn ngọn đồi. Đạp lên cỏ gai và đá nhọn. Cuối cùng… Cuối cùng, cảnh tượng khủng khiếp kia hiện ra trước mặt họ. Con voi trắng đang lên cơn thịnh nộ, tàn phá ngôi làng không thương tiếc. Vòi nó siết chết phụ nữ, chân giày xéo người già và trẻ con, ngà quật tan tành nhà cửa. Nó khát máu, nó trả thù, nó đang chứng minh cho loài người thấy nó mới là chúa tể của rừng rậm. – Nó là một con voi mang trái tim hổ dữ! – Nó là ác quỷ! – Chúng ta phải giết nó! Giết nó, hạ sát nó bằng mọi giá, săn lùng nó đến cùng trời cuối đất. Như thường lệ, con voi trắng bỏ chạy khi nhận ra mình yếu thế hơn. Nó lẩn vào đại ngàn, trầm mình xuống suối, nó ẩn nấp và chờ đợi thời cơ thuận lợi. Chờ đến lúc loài người mỏi mệt, nó sẽ bất thình lình tấn công, giết chóc, tàn phá. Sau đó rút chạy nhanh như một cơn gió. Vị già làng người Gia Rai ngẫm mình không thể đối phó nổi voi trắng, đành liên lạc với làng Tre, làng Bầu, làng Đá, kể cả nhóm nghĩa quân Tây Sơn đang hoạt động gần đó. Những vị tráng sĩ can trường cưỡi ngựa lùng sục khắp mọi ngõ ngách của rừng già. Nỏ lớn, bẫy đá giăng giăng khắp nơi. Người ta ngăn dòng suối, rút kiệt lòng sông, nhưng mọi nỗ lực đều vô vọng. Rừng rậm vẫn thâm sâu vô lường. Việc truy lùng tưởng như rơi vào bế tắc, thì một ngày nọ, có nhóm nghĩa quân Tây Sơn kéo đến tiếp ứng người Gia Rai, và họ mang theo rất nhiều rương gỗ kỳ lạ. – Thứ màu đen này là gì? – Thuốc nổ, nó đủ sức thổi tung cả một ngọn núi đó! Ngay lập tức, người Gia Rai với người Kinh tiến hành giăng một cái bẫy vô cùng tinh vi, vị già làng đích thân làm mồi nhử, thuốc nổ thì chôn giấu gần đó. Đêm trăng muộn, ngôi làng chìm vào tịch mịch. Rồi việc gì đến cũng đến, dưới lớp ánh sáng bàng bạc ma mị, con voi trắng khổng lồ xuất hiện, nó to như một quả núi với đôi mắt đỏ rực quái dị. Nó thận trọng từng bước chân dò xét, sau khi thấy an toàn, nó cuồng nộ lao tới quyết tâm nghiền nát vị già làng người Gia Rai. Mặt đất rung chuyển như sấm động. Nó không phải là một con voi, nó là ác quỷ, ác quỷ phải chết. Đùng, một tiếng nổ khủng khiếp vang lên. Lửa mịt trời, con voi to tướng bị vụ nổ hất tung một đoạn khá xa. Giết được rồi! Dân làng hò hét chạy đến bao vây con voi. Vũ khí sáng choang, giáo thương nhọn hoắt. Vị già làng phất tay bảo mọi người dừng lại, từng bước thận trọng, một mình ông tiến lên dò xét. Già làng giơ bàn tay run rẩy khẽ chạm vào đầu voi, da thịt nó bị cháy xém, máu tuôn ra ầng ậc, thứ mùi tanh tưởi không ngửi nổi. Nhưng! Có điều gì đó không đúng! Già làng chợt giật mình – Nó… nó vẫn còn sống! Nó còn sống và nó đang trừng đôi mắt đỏ ngầu nhìn ông, uất ức, phẫn nộ cùng cực. Nó là một con voi tà ác, nếu để nó chết như vậy linh hồn nó sẽ nguyền rủa cả ngôi làng, cả nước Hỏa Xá của chúng ta. Thiên tai giáng xuống, mùa màng thất bát, rừng rậm khô cằn, bệnh dịch sinh sôi… Vị già làng người Gia Rai gồng tay trăn trở, cuối cùng ông quyết định không giết nó ngay, mà giữ voi trắng lại để trấn yểm, sau đó hỏa thiêu, hiến tế lên thánh thần. Người ta dùng móc sắt móc vào chân voi, gông xiềng nó bằng một sợi xích to, những nhà luyện kim giỏi nhất của nước Hỏa Xá được nhà vua gửi đến để tạo nên kiệt tác. Họ dùng kim loại xăm chàm trực tiếp lên mình voi. Vàng, bạc, thiết được nung chảy, đổ thẳng lên da thịt loài hung thú. Từ đó vẽ thành những hoa văn trác tuyệt, những lời nguyền cổ xưa, hay những câu thần chú đã thất truyền. Một giai đoạn kỳ công và cùng cực đau đớn, con voi trắng gầm thét thảm thiết, khổ sở quằn quại suốt ngày đêm. Nhưng chẳng ai quan tâm đến nó, nó đã lạm sát quá nhiều người, nó phải trả giá. Máu hòa quyện với nỗi đau dần tạo thành kiệt tác, kiệt tác để hiến tế lên thánh thần. Ngày tháng dần trôi qua, số mệnh con voi đã được định đoạt sẵn, giàn hỏa thiêu cũng tạm chuẩn bị xong. Tuy nhiên, trước ngày con voi trắng bị hành hình có một chuyện ngoài dự tính đã xảy ra, vua Thái Đức Nguyễn Nhạc triều Tây Sơn cùng anh em tướng lĩnh bất ngờ viếng thăm bản làng. Già làng mở tiệc khoản đãi người Kinh đến khuya, ai cũng uống rượu trò chuyện rất vui vẻ. Người Gia Rai và nghĩa quân Tây Sơn có nhiều giao tình, họ từng nuôi dưỡng, che chở nghĩa quân những ngày đầu khó khăn, trai tráng trong làng còn theo chân nhà vua lập được vô số chiến công. Nay đất nước dần ổn định, vua Thái Đức thường dẫn tướng lĩnh đi thăm thú chốn xưa, ôn lại chuyện cũ. Đến khi tiệc gần tàn, trăng lên lần nữa thì đột nhiên con voi trắng ngoài sân rống lên khủng khiếp, tiếng rống chất chứa biết bao bi ai và căm phẫn. Vua Thái Đức thấy lạ liền hỏi già làng, người Gia Rai kinh hoàng kể lại câu chuyện. Vua Thái Đức nghe xong thì ôn tồn nói – Các tướng lĩnh dưới trướng ta đều anh dũng thiện chiến, có kẻ thù nào mà chưa từng đánh bại, há sợ một con dã thú hèn mọn… Nào trong các ngươi ai dám xung phong thuần phục voi dữ? Các tướng đều nhìn nhau e dè, ngay lập tức Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ bước ra giữa nhà – Để em bắt nó về cho vua anh làm vật cưỡi! Nguyễn Huệ vác đao hùng dũng bước ra ngoài, vị chiến tướng trăm trận trăm thắng đối đầu với loài hung thú khổng lồ. Ánh trăng nhập nhoạng, gió lạnh buốt xương. Con voi lùi vài bước trước khí thế ngút trời của Long Nhương tướng quân, tuy nhiên sau đó nó lại gầm rống dữ tợn hơn, quăng quật vòi ngà lung tung khiến ai nấy đều kinh hãi. Thấy sự việc không xong, Nguyễn Huệ đành vác đao trở vào, thở dài – Hay là Trần Thiếu phó thử xem sao, ông từng đánh bại cả mãnh hổ kia mà! – Thuộc hạ nào dám tranh vật cưỡi với đức vua. – Trần Quang Diệu cúi đầu ngần ngại. – Ông không cần ngại ngùng, bậc quân vương cốt ở tấm lòng bao dung rộng lớn chứ không phải đi tranh một con vật cưỡi to lớn với thuộc hạ. Vua Thái Đức mỉm cười, vẫy tay bảo Trần Quang Diệu cứ thoải mái. Vị tướng thận trọng vác đao bước ra ngoài. Lần này, thoáng thấy bóng ông, con voi trắng bỗng dưng nằm mọp xuống đất, im lìm. Tuy nhiên, khi ông đến gần hơn thì nó chợt tung vòi xém nữa là quật chết Trần Quang Diệu. Diệu toát mồ hôi hột, vội chạy trở vào trong. Nguyễn Huệ vừa uống rượu vừa cười ha hả nói – Con voi kia thật xảo quyệt, hay là thầy Cống Chỉnh, người tài giỏi nhất Bắc Hà thử lừa nó xem ai cao tay hơn! – Ấy… Ngài quá lời rồi… Tôi quen thuộc nghề thủy chiến chứ voi ngựa thực chẳng rành rẽ cho lắm! Nguyễn Hữu Chỉnh run sợ không dám nhìn vào mắt Long Nhương tướng quân, các tướng lĩnh khác cũng đùn đẩy qua lại, đến cuối cùng già làng đành thở dài tâu với vua Thái Đức – Con vật này ác nghiệp đầy mình, không sợ trời đất, chỉ có cách thiêu sống nó mà hiến tế cho thần Lửa… Vị già làng nói chưa dứt câu, thì đột nhiên mọi người nháo nhào đứng dậy, cùng nhìn ra khoảng sân. Một cảnh tượng lạ lùng diễn ra dưới ánh trăng mờ ảo, con voi trắng khổng lồ đang kéo lê đoạn dây xích tiến về phía cái bóng đen, từng bước đi rất thoải mái, vô tư. Tiếng nhạc cất lên, khi trầm lúc bổng, du dương vô cùng. Con voi trắng đang mưu tính điều gì đó? Sớm thôi, nó sẽ tung vòi siết chết cái bóng kia, rồi giẫm đạp y thành một mớ máu thịt bầy nhầy. Ai cũng nín thở dõi theo nhất cử nhất động của con voi. Tàn lửa lắc rắc rơi vào khoảng không u tịch, mấy vò rượu lăn lóc đổ vấy xuống sàn nhà. Con voi trắng thôi gầm thét, nó chỉ phát ra những tiếng thở nhè nhẹ, tĩnh lặng như loài mãnh hổ sắp sửa vồ mồi. Trần Quang Diệu chợt phát giác điều gì đó bất ổn, ông siết chặt thanh đại đao thủ thế, tuy nhiên với khoảng cách này muốn ra tay ứng cứu cũng khó lòng thực hiện. Thấy tình hình nguy cấp, Long Nhương tướng quân liền nhanh trí nhặt khẩu hỏa súng chĩa về phía đầu voi, nếu nó dám manh động sẽ lập tức khai hỏa, bắn cho máu thịt tan tành. Ngoài kia, không hề quan tâm đến sự lo lắng bồn chồn của hai vị chiến tướng, cái bóng cứ đứng tĩnh lặng, thư giãn, để mặc con voi trắng giơ chiếc vòi khổng lồ cuộn lấy thân người mỏng manh. Con voi nhấc bổng cái bóng lên cao, thậm chí tung hứng, xoay trở nhiều vòng. Cuối cùng, loài hung thú cẩn trọng đặt cái bóng lên đầu mình, cái bóng càng liều lĩnh hơn, leo trèo khắp lưng voi, vuốt ve cặp ngà đồ sộ, hay thì thầm điều gì đó vào tai voi. Quan tướng Tây Sơn tò mò tiến lại gần, thì bất chợt Trần Quang Diệu hô to – Là em hả Thị Xuân? * Thế là con voi trắng theo chân vua quan Tây Sơn từ miền thượng đạo xuống đồng bằng, vào thành Hoàng Đế. Ở đó, nó đã đại náo một phen trong lúc nữ tướng Bùi Thị Xuân đi vắng. Voi phá tan cả một dãy phố, xém nữa thì gây ra án mạng thảm khốc. Hay ban đêm, lúc nàng ngủ, nó thừa cơ húc đổ mấy gốc cây cổ thụ, sau đó tông sập luôn tường thành. Nàng phải ngồi hát cho nó nghe, vỗ về trò chuyện voi mới chịu yên. Buổi sáng, người ta thường thấy hai chủ tớ đi du ngoạn khắp vùng đất Quy Nhơn, Bình Định. Khi thăm thú vườn tược, lúc nghỉ chân dưới tháp Cánh Tiên, ngắm cảnh đê điều làng xóm hồi phục sau cơn binh biến. Nhưng được một lúc thì con voi trắng lại giở chứng, hùng hục giẫm nát mấy khoảnh lúa đang trĩu hạt. Voi đuổi theo đàn chim nháo nhác, voi đuổi theo cái bóng của mây, voi muốn tìm một khu rừng hoang sơ không có con người. Nhưng vô vọng, tận cùng dải đất này là biển cả bao la, là bờ cát dài tít tắp. Ở đó, cỏ không thể mọc, voi biết lấy gì mà ăn? Vậy là voi trắng khổng lồ quỳ sụp trên đồi cát cháy, không chạy nữa, ngoe nguẩy cái vòi chờ nàng đến trách phạt. – Biết phạt mày sao đây? – Bùi Thị Xuân khẽ sờ vào những mảng xăm kim loại trên mình voi – Cực hình đau đớn nhất mày cũng đã trải qua, không có gì trên đời này khiến mày sợ hãi nữa, thôi thì xem như mày nợ tao nghen! Yên ổn được vài ngày, nữ tướng Bùi Thị Xuân đem voi trắng vào trường thao luyện cùng những con voi khác, ngẫm nghĩ ở chung với đồng loại nó sẽ hiền lành hơn. Nhưng voi trắng vốn là một sinh vật tách biệt và kiêu hãnh. Nó ngang nhiên dùng cặp ngà khổng lồ, vô địch của mình húc bị thương ba thớt voi của triều đình, sau đó quậy phá tanh bành cả trường bắn kề bên. Buổi chiều, hai chủ tớ lại ra biển lặng nhìn lớp lớp sóng cả, giọng nàng buồn thiu – Nếu mày không chịu đổi tính cứ quậy phá như vầy, thì tao còn bị quở phạt dài dài voi à… Con voi trắng cúi đầu bên nàng, từng hơi thở nhè nhẹ, mắt lim dim, như cố gắng lắng nghe và đồng cảm. Nhưng rồi đâu lại vào đó. Lúc lên thuyền để trẩy binh vào Gia Định nó len lén đạp vỡ ván gỗ, khiến thuyền thủng một lỗ to tướng, xém nữa là chìm chết mấy trăm mạng người. Dã tính của nó vẫn vậy, sự xảo quyệt của nó không thay đổi, chỉ là lúc có nữ tướng bên cạnh, nó giả vờ ngoan ngoãn nhằm đánh lừa mọi người. Đến khi đánh nhau với quân Xiêm, nó hiện nguyên hình là một con hung thú đầy ác tâm và bạo ngược, voi trắng cố tình nghiêng mình hứng đạn pháo bay về phía bành voi, may mà nữ tướng nhảy xuống kịp. Thế là con voi trắng khổng lồ không cần người điều khiển, tự do xông pha trận mạc, nó hùng hục lao về phía trước, gặp ai giết nấy, giẫm đạp, quăng quật vô số quân địch. Nó húc chết sáu con voi Xiêm, giày xéo cả một vùng thành bãi lầy đẫm máu, trước khi kiệt sức nằm thở hổn hển trên gò đất. Ai cũng sợ hãi khi chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp đó, duy chỉ có nữ tướng là vẫn can đảm đến bên cạnh voi trắng, nhẹ nhàng rút những mũi tên nhọn, dùng thảo dược bôi lên mình voi. Vết thương cũ và mới, máu đen sậm rỉ rả phía sau những mảng xăm bằng kim loại. – Chắc mày đau đớn lắm phải không? Nàng trò chuyện với nó, vuốt ve trán voi, giọt nước mắt cảm thông chẳng biết có tác dụng gì không, nhưng nàng vẫn khóc, bằng trái tim giàu cảm xúc của con người. * Giặc Xiêm bị đánh tơi bời, đất Gia Định tạm thời yên ổn. Bùi Thị Xuân tiếp tục cưỡi voi trắng khổng lồ theo chân Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ tiến công ra Bắc. Trận đầu là chiến dịch Phú Xuân, quân Trịnh chống trả rất quyết liệt. Nàng dẫn binh sĩ đánh thẳng vào lũy Trấn Ninh. Con voi tinh ranh ban đầu rất nghe lời, đi theo đúng sự điều khiển của nàng, phía sau là hai chục thớt voi thiện chiến khác. Nhưng đến khi giáp công, voi trắng bất chợt tách hàng ngũ, tông thẳng vào cổng thành. Với sức mạnh bạt núi của loài hung thú, cánh cổng gỗ nhanh chóng bị phá sập, voi chạy một hơi vào thành địch, càn quét băng băng qua mưa tên bão đạn. Quân Trịnh ném hỏa cầu về phía bành voi, dùng cung tên bắn xối xả, Bùi Thị Xuân chống đỡ đến kiệt sức. Tình thế như ngàn cân treo sợi tóc, bốn phía đều là quân địch, lửa cháy mù mịt. Nàng ôm chặt đầu voi than trách – Mày thấy chưa, mày muốn hại tao nhưng lại khiến cả hai cùng gặp nguy hiểm, địch vây tứ phía, biết làm sao bây giờ? Hỏa cầu thi nhau phát nổ, giải phóng những cuộn lửa nóng hực. Lửa đuổi theo dấu chân voi, lửa xoáy tròn, lan rộng. Những mảng hình xăm bằng kim loại trên mình voi từ từ bắt lửa, sáng rực lên. Kiệt tác càng phản chiếu đẹp đẽ, con voi càng đau đớn khủng khiếp. Voi gào thét, quăng quật hết súng pháo và ống đồng. Voi lao đầu xuống hầm bẫy, đứng chôn chân trong tàn tro. Bốn bề lửa vẫn cháy, chiến tranh quay cuồng như lò bát quái. Người ta tiếp tục bắn giết nhau. Cơn cuồng loạn của voi trắng, cơn cuồng loạn của đất trời. Nữ tướng thu song kiếm, bắt chéo trước ngực. Nàng thôi không chống đỡ nữa, chỉ ngẩng đầu nhìn cuộn mây vũ tích chất chồng – Mưa… Mưa rồi… Những hạt nước nặng nề vỡ tan trên trán người, lộp độp thấm ướt cây cỏ. Mưa lớn hơn, thoáng chốc bao trùm trần thế. Nghĩa quân Tây Sơn tận dụng thời cơ tràn vào thành lũy, tàn quân Trịnh vứt hết súng pháo lũ lượt đầu hàng. Con voi trắng quỳ sụp xuống, lửa đỏ trên mình nó từ từ tắt ngấm, voi nằm giữa bùn lầy rất lâu, tận hưởng phút mát dịu hiếm hoi của trời đất. Bùi Thị Xuân thở phào nhẹ nhõm. Chiến tranh trôi qua, mây chuyển gió dời, ngổn ngang cờ thương, giáo gãy ngoài kia. Tất cả dần bị thời gian xóa sạch hết, chỉ còn bờ cát êm đềm. Đến cuối ngày, nàng dẫn con voi ra biển rộng, những chiến thuyền khổng lồ của Tây Sơn đang hiên ngang cập bến. Nàng vuốt ve ngà voi, nó lắc lư cái đầu tỏ ý thuần phục – Nghe nói chúa công muốn đánh thẳng ra Bắc Hà, lật đổ họ Trịnh, thống nhất giang sơn Đại Việt… Chúng ta lại để sổng mất tên gian tặc Nguyễn Ánh, bây giờ hắn đang ở Xiêm La, sống vất vưởng như cái bóng ma chờ ngày phục vị. Kẻ thù cũ vẫn còn, kẻ thù mới đang đợi chúng ta ở phía trước… Hành trình vẫn còn dài lắm voi trắng à… Hay tao gọi mày là Hỏa tượng nhé… Hỏa tượng, mày có sợ chiến tranh không? * Không sợ hãi, Hỏa tượng gầm lên kiêu hãnh. Nó yêu thích giết chóc, nó say mê phá hủy tường lũy và thành trì. Đúng một tháng sau, quân Tây Sơn tràn vào Thăng Long như vũ bão. Chúa Trịnh, một dòng họ từng khống chế thiên tử, cai trị Bắc Hà ngót hai trăm năm sụp đổ, “kiêu binh” tan tác khắp nơi. Bùi Thị Xuân cưỡi voi trắng diễu hành quanh đất Thăng Long đô hội. Dân Bắc Hà đổ ra xem chật cả đường, có người hân hoan, có người sợ hãi, có kẻ âm thầm mưu tính. Chúa Trịnh và chúa Nguyễn đánh nhau hơn trăm năm, bảy lần đại chiến bất phân thắng bại, vậy mà Tây Sơn hưng khởi mới vài năm đã lật đổ cả Trịnh Nguyễn, lập nên chiến công vang trong lừng sử sách. Vua Lê Hiển Tông rất xem trọng Nguyễn Huệ, sắc phong ngài làm Uy Quốc công, còn gả cô công chúa tài sắc là Lê Ngọc Hân cho vị anh hùng. Từ đây đất nước sẽ thanh bình, bốn phương yên ổn ư? Nàng ngồi bên dòng Nhĩ Hà, cạnh chú voi trắng khổng lồ, đất Thăng Long ngàn năm văn hiến, những tòa lầu mái ngói rêu phong, cầu gỗ, hồ sen, vườn liễu rũ. Cảnh vật tuy đẹp đẽ nên thơ nhưng lòng người sao cứ buồn bã, ưu phiền. – Chưa đâu, chiến tranh còn lâu lắm mới kết thúc Hỏa tượng à… Những cung điện mới mọc trên tàn tích của triều đại cũ. Dòng họ này bị tiêu diệt, dòng họ khác bước lên ngai vàng. Từ Đại La đến Thăng Long, Đông Đô lại đổi thành Đông Kinh. Kẻ Chợ thuyền buôn tấp nập, bốn bề sông ngòi bao quanh. Đồng bằng trù phú, ruộng lúa tốt tươi. Phủ chúa Trịnh kia, mấy trăm tòa lâu đài cung khuyết, cung vua Lê đó, thâm nghiêm giữa chốn kinh kỳ. Tiếc rằng Uy Quốc công Nguyễn Huệ “phù Lê” chưa được bao lâu, thì vua Thái Đức Nguyễn Nhạc đích thân ra Bắc Hà triệu hồi người em trở về – Bắc Hà là nước lớn, tuy dẹp yên được một lúc nhưng khó thể khống chế lâu dài, em phải trở về Thuận Hóa, toàn tâm toàn ý ngồi vào chiếc ghế Bắc Bình vương, như vậy là đủ. Vua Thái Đức vừa khuyên răn vừa cảnh cáo em mình. Những cuộc hành quân dài tiếp nối nhau, ý chí người này chồng chéo lên ý chí kẻ khác, đất Thuận Hóa quá nhỏ bé so với khát vọng của Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Ngồi ngắm sông Hương mùa nước lũ, Bùi Thị Xuân thủ thỉ trò chuyện cùng voi trắng – Chúa công lại sắp sửa động binh, lần này không đánh giặc ngoài nữa mà hai anh em họ nồi da xáo thịt lẫn nhau… Hỏa tượng à, mày có sợ chiến tranh không? Vì mâu thuẫn trong chuyện Bắc Hà, vua Thái Đức đem quân hỏi tội em trai, Bắc Bình vương phản kháng bằng cách huy động một lực lượng hùng hậu bao vây thành Hoàng Đế ngặt nghèo. Những thớt voi gầm thét suốt ngày đêm, súng pháo nã về phía thành trì không ngớt. Tình thế nguy nan buộc vua Thái Đức phải lên đầu thành khóc lóc xin giảng hòa, Nguyễn Huệ nể tình anh em nên đồng ý lui binh. Tiếng là hòa hoãn nhưng ai cũng trong tâm thế dè chừng đối phương, nội bộ Tây Sơn rạn nứt nghiêm trọng. Chiến tranh vẫn âm ỉ như tàn lửa chờ ngày bùng phát. Nữ tướng Bùi Thị Xuân cưỡi voi trắng vượt Hải Vân quan, trùng trùng mây núi chất chồng lên nhau, cây cối xanh tươi kéo dài ra biển rộng. Nàng thầm nghĩ, công cuộc nhất thống giang sơn hãy còn xa lắm. Thuận Quảng vừa yên thì Bắc Hà lại có biến, Nguyễn Hữu Chỉnh lấn quyền vua Lê, Thăng Long hỗn loạn, lòng người ly tan. Bắc Bình vương Nguyễn Huệ lập tức cử Vũ Văn Nhậm xuất chinh, hành quân thần tốc, đánh cho thầy trò lão Cống Chỉnh tan tác. Tuy nhiên, vua Lê Chiêu Thống cũng bỏ ngai vàng chạy mất, loạn lạc tiếp nối loạn lạc, như ngọn lửa cháy lan vô phương dập tắt nổi. Thôi thì cứ để ngọn lửa thiêu trụi cả khu rừng, tận diệt hết những tàn dư, cặn bã. Đề rồi sau bão tố, cây cối sẽ hồi sinh tươi tốt hơn xưa. – Mày nghĩ chúng ta có thắng nổi quân Thanh không? Nữ tướng Bùi Thị Xuân ngồi trên bành voi, theo chân Quang Trung hoàng đế trẩy quân ra Bắc. Hai mươi chín vạn quân Thanh thừa cơ xâm lược nước ta, vua Lê Chiêu Thống hèn hạ luồn cúi với tướng giặc. Vận nước mong manh, dân chúng khổ sở. Dãy Tam Điệp đây, ngăn cách đất Thanh Nghệ với vùng đồng bằng Bắc Hà, chỉ cần tiến vài bước nữa, lửa đỏ sẽ bừng lên, xoay vần, đuổi theo dấu chân voi mãi mãi. Hỏa tượng gầm thét trong đêm, hàng hàng voi chiến có gắn cả hỏa súng trên lưng tấn công dồn dập vào đồn Khương Thượng của quân Thanh. Lũ giặc không sao chống đỡ nổi nguồn sức mạnh khủng khiếp mang tên Tây Sơn, lớp bị giết, lớp bị voi giày, xác chết chất thành mười hai gò cao quanh Đống Đa. Tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, quân Thanh nhanh chóng tan vỡ. Từ Đống Đa đến Thăng Long là đại thắng, chiến công lừng lẫy mang tên Quang Trung hoàng đế. Tôn Sĩ Nghị nghe tin các đồn lũy vùng ven bị hạ, cuống cuồng bỏ hết ba quân chạy trước. Ngày mồng Năm, Tết Kỷ Dậu, vua Quang Trung tiến vào thành Thăng Long, khói súng ám đen áo bào, nhân dân đổ ra nghinh đón chật cả đường. Trong lúc mọi người đang ăn mừng chiến thắng, thì nữ tướng Bùi Thị Xuân một mình cưỡi Hỏa tượng rảo quanh kinh kỳ. Chỉ mới mấy năm mà cảnh tượng tiêu điều đến khó tin, phủ chúa bị thiêu trụi, cung vua trống rỗng, bao dinh thự nguy nga ngày nào giờ vắng tanh. Nàng dừng chân bên dòng sông Nhĩ Hà, vẫn trầm ngâm suy nghĩ về tương lai – Sông này sâu bao nhiêu trượng, mày có thể chở tao bơi qua bờ bên kia không? Tận cùng con đường này là gì? Chiến thắng rồi nhưng chiến tranh mãi chưa kết thúc. Quân Tây Sơn trở về Thuận Hóa sau khi tình hình Bắc Hà tạm yên. Bùi Thị Xuân cưỡi Hỏa tượng băng qua lũy Trấn Ninh. Nước sông Gianh mãi mãi u buồn như vậy. Biển trời, cát trắng, núi đồi, đầm sâu. – Nghe nói Nguyễn Ánh vừa thu phục được đất Gia Định, Đồng Nai. Dân Nam Bộ rất trung thành với họ Nguyễn. Chúng đang xây một tòa thành khổng lồ trên những dòng sông. Chúng đang đúc súng lớn, đóng thuyền to chuẩn bị chiến tranh một lần nữa… Một lần nữa, Hỏa tượng, mày có đủ sức mạnh để húc sập thành Bát Quái không… Mày có sợ chiến tranh không? Con voi trắng khổng lồ hơi nghiêng đầu rồi lặng thinh. Nó không thể trả lời, nó không hiểu nàng nói gì. Nó là một con voi hung hãn với đôi mắt đỏ rực. Nó luôn chuẩn bị tinh thần để giết chóc, tàn phá. Nhưng hôm nay nó thật lạ, voi đón nhận hai từ “chiến tranh” bằng ánh mắt buồn thảm và thái độ lãnh đạm, thờ ơ. Có thể nó đã đổi tính sau nhiều năm theo nàng, được nàng huấn luyện, vỗ về. Có thể nó đã quá mỏi mệt với những chuyến hành quân dài, rất dài. Hoặc có thể, nó đã chán ghét con người, chán ghét chiến tranh đến cùng cực. * Và cuối cùng, nàng lại trở về lũy Trấn Ninh này. Lũy Trấn Ninh, lũy Thầy, khu thành lũy ngăn cách non sông hơn một trăm năm mươi năm trời. Đàng Trong và Đàng Ngoài, chúa Trịnh và chúa Nguyễn bảy lần đại chiến khiến máu chảy thành sông, dân chúng khổ sở trong cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn. Khởi nghĩa Tây Sơn bùng lên như bão lửa, lần lượt đánh đổ chúa Nguyễn, chúa Trịnh, hạ bệ vua Lê, chế ngự giặc Tàu Ô, đánh đuổi quân Xiêm ngang ngược, đại thắng hai mươi chín vạn quân Thanh. Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, định đô ở Phú Xuân, mở ra kỷ nguyên nhất thống thiên hạ. Cứ tưởng từ đây đất nước sẽ yên ổn, nhân dân an hưởng thái bình. Nhưng không ngờ ngọn lửa chiến tranh vẫn bám theo dấu chân voi, xoáy tròn và lan rộng hơn. Thủy chiến Thị Nại thiêu rụi tất cả binh thuyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, Nguyễn Ánh từ Gia Định tiến công ra Bắc, vây kín thành Hoàng Đế. Giữa tình cảnh ngặt nghèo đó, vua Quang Trung đột ngột qua đời, không lâu sau Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc cũng lâm trọng bệnh mà mất. Sau nhiều xáo trộn trong nội bộ Tây Sơn, nữ tướng Bùi Thị Xuân cùng chồng là Trần Quang Diệu đã gạt bỏ tư thù, bắt tay làm hòa với tướng Võ Văn Dũng, cùng chống đỡ đại nghiệp Tây Sơn buổi xế chiều… Và tàn cuộc, thủy chiến Thị Nại lần hai đã thiêu trụi toàn bộ thủy quân Tây Sơn. Và tàn cuộc, đô thành Phú Xuân thất thủ, nữ tướng Bùi Thị Xuân hộ giá vua Cảnh Thịnh bỏ chạy ra Bắc Hà, nương nhờ binh lực của Khang công Nguyễn Quang Thùy. Bây giờ nàng đứng ở đây, lũy Thầy xa xa, lũy Trấn Ninh đồ sộ, quân Nguyễn đã thu phục được toàn bộ Nam Hà. Vua Cảnh Thịnh ngự giá thân chinh, quyết sống mái với Nguyễn Ánh trong trận đánh cuối cùng này. Ba vạn quân gào thét dưới mưa giông, thề tử chiến để lấy lại niềm kiêu hãnh mang tên Tây Sơn. Huyền thoại là bất tử, huyền thoại không thể chết. – Chặt đầu Nguyễn Ánh, trung hưng Tây Sơn! – Chặt đầu Nguyễn Ánh, trung hưng Tây Sơn! – Giết! Giết! Giết! Nữ tướng Bùi Thị Xuân ngồi trên bành voi, vỗ về loài hung thú. Con voi khổng lồ này từng húc sập vô số thành lũy của giặc, ngạo khí ngút trời, hôm nay nó có đủ sức công phá lũy Trấn Ninh, lật ngược thế cờ hay không? Nàng không biết, những dự cảm, bất an cứ miên man, trôi nổi trong đầu. Nàng không biết, nước cờ này đã đánh sang sông, chẳng thể nào lùi bước được nữa. Mấy chục thớt voi dàn hàng ngang rống lên như sấm sét, quân Tây Sơn theo gót nàng đánh riết vào lũy Trấn Ninh, pháo súng từ trên lũy bắn xuống như sao sa chớp giật, nhưng họ không bỏ cuộc. Lớp trước ngã xuống, lớp sau nhanh chóng tiến lên. Nàng cầm quân không mệt mỏi, đánh từ sáng đến chiều, mặc kệ máu và mồ hôi ướt đẫm giáp bào. – Mọi người cố gắng lên, thắng trận này đại thế Tây Sơn sẽ hồi phục, thắng trận này chúng ta cùng gầy dựng lại giang sơn! Con voi trắng Hỏa tượng húc sầm vào tường lũy, một cú va chạm khủng khiếp, những con voi khác thấy thế cùng lũ lượt ùa lên. Hơi nao núng một chút, lũy Trấn Ninh vẫn đứng sừng sững không chịu đổ sập. Có lẽ cú húc chưa đủ lực, có lẽ sức mạnh của voi trắng đã giảm đi nhiều sau hàng chục năm chinh chiến gian khổ. Có lẽ ông trời không còn đứng về phía Tây Sơn nữa. Mây gió trôi dài, lòng người tản mác. Nhưng nàng không bỏ cuộc, nữ tướng quyết định tập trung hỏa lực đánh dồn dập vào một điểm, quân lính trèo lên những cái xác voi để công thành. Trận chiến diễn ra ngày càng khốc liệt hơn. Quân Nguyễn từ thế khinh thường chuyển sang sợ hãi, sức chống đỡ giảm dần. Bầy voi rống lên điên cuồng, pháo súng nổ tung trời – Lũy Trấn Ninh sấp thất thủ rồi, quân Nguyễn đang tháo chạy kìa! Nữ tướng tự tay thúc trống trận liên hồi để cổ vũ tinh thần binh sĩ. Và tàn cuộc, có gì đợi chờ nàng phía trước? Khi cổng thành sập xuống, một khu lũy trống rỗng hiện ra trước mắt Bùi Thị Xuân. – Bẩm, lũy Trấn Ninh trống rỗng, quân Nguyễn tháo chạy hết rồi. – Quân Nguyễn chạy đi đâu? – Nàng trỏ kiếm điều động đội khinh kỵ nhanh chóng truy lùng. – Bẩm, có tin báo, sự việc vô cùng nguy cấp! – Chuyện gì? – Nữ tướng đứng thẳng trên bành voi cố phán đoán tình hình. – Quân Nguyễn… chúng đang vượt sông tập kích… ở phía sau lưng quân ta… Nguyễn Ánh thừa cơ đại quân Tây Sơn đang tập trung công phá lũy Trấn Ninh, liền dùng kế “bắt giặc bắt tướng”, lùa quân vượt sông Gianh đánh tập hậu vào bản doanh Tây Sơn. Vua Cảnh Thịnh đang ngự chiến ở đó tưởng nguy khốn, hoảng hốt ra lệnh lui binh. Đại thế Tây Sơn dần tan vỡ, biết bao xương máu đổ xuống những tưởng có thể giành chiến thắng, rốt cuộc hóa hư không. Từ hai trận thủy chiến Thị Nại, cuộc vây khốn thành Bình Định, giờ đến trận Trấn Ninh này đã chứng tỏ cơ mưu của Nguyễn Ánh không phải tầm thường. Dưới vòm trời đất chỉ có vua Quang Trung mới đủ sức áp chế nổi Nguyễn Ánh. Nhà vua mất rồi, cơ nghiệp Tây Sơn dần lụi tàn theo cát bụi. Bùi Thị Xuân tức tốc đuổi theo nắm áo bào của vua Cảnh Thịnh, khuyên nhà vua cố đánh. Tuy nhiên tin dữ lại dồn dập truyền đến, Nguyễn Văn Trương vừa phá tan thủy binh Tây Sơn trên cửa biển Nhật Lệ, tướng sĩ Tây Sơn đều thất thần, mạnh ai nấy vứt vũ khí tháo chạy thoát thân. Và tàn cuộc, Hỏa tượng bị kẹt một mình trên chiến trường, nó vẫn kiên cường chiến đấu, quăng quật, giày xéo điên cuồng. Quân Nguyễn dùng súng lớn bắn phá, nó tung người né tránh. Quân Nguyễn dùng hỏa đồng đốt cháy rang một vùng cát sỏi, nó khốn khổ chống đỡ. Quân Nguyễn dùng câu liêm móc rách toạc hết thịt da voi trắng. Nó khuỵu xuống, nó đã quá già và mỏi mòn. Hỏa tượng cố ngẩng đầu nhìn về phía tàn quân Tây Sơn đang tháo chạy, nó muốn nhìn thấy bóng dáng nàng lần cuối, vị nữ tướng cả đời hiên ngang. * Hỏa tượng bị nhốt trong thành Phú Xuân, bị xích vào cột đồng lớn. Quân Nguyễn dần khám phá ra bí mật về hình xăm trên mình voi. Họ dùng hỏa dược thiêu đốt voi trắng mỗi ngày, mỗi ngày những đường nét hoa văn kia lại sáng rực lên. Tuyệt tác, người ta thưởng thức tuyệt tác bằng ánh mắt say mê thán phục. Người ta không quan tâm đến nỗi đau của nó. Người ta không quan tâm đến nỗi đau của kẻ thù. Nó nằm gục xuống đá sỏi, nó ngày càng hung hăng hơn, nó gào thét trong bất lực. Vua Gia Long từng nghe danh tiếng con voi trắng khổng lồ, nay ngự giá đến xem, nhưng tất cả những gì nhà vua được chứng kiến là một con quái vật đen đúa, lở loét, gầy đến trơ xương. Thật thảm hại, ngài từng đinh ninh mình sẽ cưỡi trên lưng Hỏa tượng, diễu hành khắp đô thành Phú Xuân ăn mừng chiến thắng. Bên dưới muôn dân thi nhau tung hô, ca tụng chiến công hiển hách của ngài. Nhưng cuối cùng kế hoạch kia phá sản. Nó sắp chết, không, không thể để nó chết quá dễ dàng. Nhà vua đanh mày nói “Phải giữ nó sống, chờ ngày đoàn tụ với chủ nhân.” Con voi thôi bị tra tấn, người ta bôi thuốc và chăm sóc nó đàng hoàng hơn. Hằng đêm nó kêu gào thảm thiết, dưới ánh trăng, trong bốn bờ tường lạnh ngắt. Nó nhớ nàng, người quản tượng có trái tim đa sầu đa cảm. Nó nhớ rừng già, nó ghê sợ thế giới loài người. Nó ghê sợ chiến tranh và mùi thuốc súng tanh tưởi. Nó muốn trầm mình xuống dòng suối xanh mát của núi rừng. Vĩnh viễn. Vĩnh viễn là bao lâu? Một tháng? Hai tháng? Ba tháng trời trôi qua. Và cái ngày kinh khủng kia cũng đến. Người ta dẫn nó đi gặp chủ nhân của mình, ở một nơi mà loài người gọi là pháp trường. Nữ tướng Bùi Thị Xuân bị trói vào cột gỗ, người ta ép nó phải giết bà, nó chần chừ không dám lao đến, nó ngoan cố lùi sát vách tường. Quân Nguyễn dùng súng bắn ầm ĩ, nó gầm rống phản kháng. Quân Nguyễn tưới hỏa dược khắp mình voi rồi châm lửa đốt. Ngọn lửa hung bạo, ngọn lửa nhanh chóng lan tràn khắp cơ thể voi trắng, những hoa văn thêm một lần sáng rực rỡ. Lũ người xung quanh say mê ngắm nhìn tuyệt tác, tuyệt tác được vẽ lên bằng nỗi thống khổ của kẻ khác. Ai cũng hân hoan chỉ có nữ tướng là đau lòng. Bà nhìn vào mắt voi, nhẹ gật đầu. Con voi hoảng loạn lao tới dùng vòi tung bà lên trời. Theo thường lệ, nó phải giẫm nát xác tử tù, nhưng Hỏa tượng lại chạy vòng quanh pháp trường, da nó chảy xệ xuống và thứ hình xăm đẹp đẽ kia dần lẫn lộn với máu thịt, lụi tàn. Triều Tây Sơn oai hùng đã lụi tàn, vĩnh viễn. Nhưng ngọn lửa rực rỡ kia, mãi cháy bừng trong sử sách. * [Truyện đã có phiên bản sách giấy, được in trong tập Thánh Dực Dũng Nghĩa truyện. Bạn có thể đặt mua sách TẠI ĐÂY] Bạch tượng và Nữ tướng Hỏa Tước Nguyên Võ Thuồng luồng Thánh Dực Dũng Nghĩa truyện Ve sầu thoát xác

bùi thị xuân 2k3 chết