Phim; Phim hoạt hình; Nấu ăn chay; Diễn đọc: HT Thích Trí Thoát Download Kinh Lăng Nghiêm- Công Phu Khuya Kinh Lang nghiem - cong phu khuya.mp3. Nhãn: Audio, Kinh, Kinh tụng, Sách nói. 0 Bình luận: Post a Comment.
Phim Phật giáo; Pháp Âm; xây dựng Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn vào năm 1944, đến năm 1950 thì hoàn tất.
LỜI DỊCH GIẢ. Kinh Thủ Lăng Nghiêm này được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán vào đời nhà Đường Trung Quốc, do Sa môn Ấn Độ BẤT LA MẬT ĐẾ dịch nghĩa, Sa môn DI GIÀ THÍCH CA người nước U Trường dịch lời, Quan Chánh Nhị Đại Phu nhà Đường PHÒNG DUNG chấp bút
LĂNG KÍNH. From Category 398. Latest . Latest; Featured posts; Most popular; Nền kinh tế đang cần phản ứng chính sách linh hoạt. thanh hong-Thứ Hai, 28/03/2022 1. Lỗ hổng nghiêm trọng sao lại xuất hiện dễ dàng? Tấn Sang-Thứ Bảy, 26/03/2022 1. 1 2 3 31 Page 1 of 31. EDITOR PICKS.
Nghe pháp thoại: TĐ:1823- Huyền cơ của "kinh Lăng Nghiêm". Trong Kinh Lăng Nghiêm, thông thường đều cho rằng Lăng Nghiêm là Mật tông cần phải tu, Thiền tông cần phải tu. Hình như trong kinh điển của Tịnh tông, không có Kinh Lăng Nghiêm. Thật ra Đại Thế Chí Bồ Tát Viên Thông
Tuyên Hóa. Giảng KINH Lăng Nghiêm 7/7 - Hòa Thượng. Tuyên Hóa. Mua bán cây thuốc vị thuốc, dược liệu, sản phẩm y học cổ truyền, nông sản: CHỢ DƯỢC LIỆU VIỆT NAM. HT. Tuyên Hóa giảng KINH Lăng Nghiêm - 7/7. HT. Tuyên Hóa giảng KINH Lăng Nghiêm - 7/7. Chúc mừng bạn!
651QEJa. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bản kinh vô cùng quan trọng và liên quan mật thiết đến sự trường tồn của Phật Pháp. Chính vì thế Hòa Thượng Tuyên Hóa đặc biệt coi trọng kinh này, Ngài Bảo “Trong Phật giáo có rất nhiều bản kinh quan trọng, nhưng quan trọng nhất là kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nếu nơi nào có kinh Thủ Lăng Nghiêm đang được lưu hành, có nghĩa là chánh pháp đang còn ở thế gian. Nếu không còn kinh Thủ Lăng Nghiêm nữa, có nghĩa đã đến thời mạt pháp. Do vậy, người Phật tử chúng ta, mỗi người cũng như tất cả Phải đem hết sức lực, đem hết tâm huyết, đem hết mồ hôi nước mắt để giữ gìn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Trong kinh Pháp Diệt Tận có nói rất rõ ràng “Vào thời mạt pháp kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hoại diệt trước hết, sau đó, các kinh khác dần dần biến mất.” Kinh Pháp Diệt Tận. Cách tụng kinh tại nhà. Cách niệm Phật tại nhà Âm đức là gì. Cách thay đổi vận mệnh. Kinh Địa Tạng. Kinh Thập Thiện Nghiệp. Chuyện nhân quả báo ứng. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Nếu như kinh Thủ Lăng Nghiêm không bị biến mất thì thời kỳ chánh pháp vẫn còn tồn tại. Do đó hàng Phật tử chúng ta phải đem tất cả tính mạng để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm,; Phải đem hết tâm huyết để thọ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm; Phải đem hết hạnh nguyện để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm làm cho kinh Thủ Lăng Nghiêm mãi mãi tồn tại ở thế gian; Xiển dương sâu rộng khắp nơi, lưu truyền đến mọi ngóc ngách ở trên thế gian; Cho đến từng hạt vi trần, khắp tận hư không pháp giới. Nếu chúng ta làm được như vậy thì nay vẫn còn thời chánh pháp đang tỏa chiếu ánh sáng đại quang minh. Tại sao lại nói kinh Thủ Lăng Nghiêm bị tiêu hủy trước tiên? Vì một điều quá chân thực, kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thân của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là Xá lợi của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là tháp miếu chân thực của đức Phật. Do vì đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm quá chân thực, nên toàn thể ma vương đều dùng mọi cách để phá hủy kinh Thủ Lăng Nghiêm. Họ bắt đầu đưa ra những lời đồn đại, xuyên tạc, cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả mạo. Vì sao thiên ma ngoại đạo cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo? Kinh Lăng Nghiêm là kính Chiếu yêu Vì kinh Thủ Lăng Nghiêm nói quá chính xác, đặc biệt là phần nói về Bốn lời khai thị về bản tánh thanh tịnh sáng suốt Tứ chủng thanh tịnh minh hối, phần Hai mươi lăm vị Thánh nói về pháp tu chứng viên thông, và phần Năm mươi tướng trạng ấm ma. Ngoại đạo tà giáo, yêu ma quỷ quái không thể nào chịu nổi giáo lý này. Cho nên họ kéo theo rất nhiều người thiếu hiểu biết tuyên bố rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo. Những đạo lý được đề xuất trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, một mặt đúng là chánh pháp, mặt khác lại phù hợp với đạo lý. Cho nên bọn tà ma, quỷ quái, bàng môn ngoại đạo không thể ẩn dấu tung tích được. Một số người thiếu ý thức, cụ thể là những học giả kém thông thái; Những giáo sư chuyên thu thập kiến thức tạp nham “chuyên đuổi mồi bắt bóng”; Với sự hiểu biết cực kỳ hẹp hòi và hạn chế, họ hoàn toàn bị mê muội và nhầm lẫn; Họ không có được sự uyên bác thực sự và không có trí tuệ chân thực, thế nên họ phê phán một cách hồ đồ. Chúng ta là những người tu học Phật pháp, nên nhận thức sâu sắc về những trường hợp này. Do đó bất kỳ đi đâu chúng ta cũng phải xiển dương kinh Thủ Lăng Nghiêm. * Bất kỳ đi đâu chúng ta cũng nên truyền bá kinh Thủ Lăng Nghiêm. Bất kỳ đến đâu chúng ta cũng giới thiệu kinh Thủ Lăng Nghiêm cho mọi người. Sao vậy? Vì chúng ta muốn làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, tôi xin có cam đoan này với qúy vị Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực thì dĩ nhiên chẳng có vấn đề gì, còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, thì tôi nguyện rằng tôi là kẻ trước tiên đọa vào Vô gián địa ngục. Vì tôi không nhận thức được Phật pháp, nhận vọng làm chân. Còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực, thì tôi nguyện đời đời kiếp kiếp truyền bá đại pháp Thủ Lăng Nghiêm; Nghĩa là mọi nơi mọi lúc tôi sẽ xiển dương đạo lý chân thật của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Mọi người nên chú tâm vào điểm này. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm không do từ kim khẩu Đức Phật nói ra, thì chẳng còn một ai có thể giảng nói được. Chẳng còn một người nào khác có thể nói được một giáo lý chính xác như kinh Thủ Lăng Nghiêm. * Vì thế tôi hy vọng rằng những người thiếu ý thức đã có các suy nghĩ sai lầm này, sớm thức tỉnh, dừng lại việc tạo ra cái nhân sai lạc. Nếu không sẽ chiêu cảm quả báo ở địa ngục Bạt thiệt. Bất luận học giả đó là ai, bất luận những nhà nghiên cứu Phật pháp ở bất cứ quốc gia nào; Tất cả nên nhanh chóng sửa đổi cách nhìn, nhận ra lỗi lầm của mình và tìm cách điều chỉnh. Chẳng có việc thiện nào lớn lao hơn thế nữa. Tôi chắc rằng khi tất cả mọi người đều đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm; Mọi người đều nghe giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm; Mọi người đều tham cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm, thì tất cả đều sẽ chóng thành Phật đạo. Ngài là Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, lời của Ngài chân thật không bao giờ hư dối! * KINH THỦ LĂNG NGHIÊM Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Sa môn Bát thích mật đế người Trung Thiên Trúc, dịch vào đời Đường. Sa môn Di già Thích ca, người nước Ô Trành dịch ngữ. Sa môn Hoài Địch, chùa Nam Lâu, núi La Phù, chứng minh bản dịch. Đệ tử thọ Bồ tát giới tên Phòng Dung, hiệu Thanh Hà, chức Tiền Chánh Nghị Đại Phu đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự bút thọ nhuận bút. Sa-môn Thích Vân Đàm dịch Hán Văn qua Phiên Âm Việt Ngữ * Kệ Khai Kinh Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu. Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Con nay nghe được chuyên trì tụng Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Quyển 1. Duyên Khởi Tôi nghe như vậy Lúc ấy Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt, với chúng đại tỷ khưu, gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến dự. Tất cả các vị đều là bậc đại A La Hán đã chứng quả vô lậu. Phật tử trú trì, khéo vượt qua các cõi, thường nơi các cõi nước thành tựu các uy nghi, theo Đức Phật chuyển pháp luân, khéo kham nhận lời di chúc của Đức Phật, giữ giới luật tinh nghiêm, làm bậc mô phạm trong ba cõi. Ứng thân vô số lượng để độ thoát chúng sinh trong đời vị Lai, cứu giúp họ vượt khỏi các ràng buộc nơi cõi trần. Các vị ấy là Đại trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Hi La. Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Bà Ni Sa Đà làm thượng thủ. Lại có vô lượng các bậc Bích chi, các bậc vô học và hàng sơ phát tâm cùng đến chỗ Phật. Nhằm lúc các tỷ khưu làm lễ tự tứ mãn hạ, các vị Bồ Tát trong mười phương đến cầu thỉnh giải quyết tâm nghi. Đồng kính phụng đức từ nghiêm, thỉnh cầu Phật chỉ dạy nghĩa lý thâm mật. * Khi ấy Như Lai trải tòa ngồi an nhiên, vì đại chúng tuyên bày ý nghĩa thâm áo. Chúng hội thanh tịnh, được điều chưa từng có. Như tiếng chim Ca lăng tần già vang khắp mười phương cõi nước. Các vị Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng cùng đến đạo tràng. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ. Khi ấy vua Ba-tư-nặc nhân ngày giỗ của vua cha, thiết lễ trai nghi, thỉnh Đức Phật vào cung cúng dường. Vua đích thân nghinh đón Như Lai, dâng cúng nhiều thức ăn ngon quý. Tự mình thỉnh mời các vị Đại Bồ Tát. Trong thành cũng có các vị trưởng giả cư sĩ đồng thời thiết lễ trai tăng, mong được thỉnh Phật đến cúng dường. Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi phân lãnh các vị Bồ Tát và A La Hán đến nhà trai chủ dự lễ cúng dường. Chỉ có A-Nan đã nhận lời biệt thỉnh. Đi xa chưa về, nên không kịp dự vào hàng tăng chúng, không cùng các vị thượng tọa và a-xà-lê đi. Hôm ấy không có người cúng dường, A-Nan chỉ một mình trên đường về. Lúc ấy A-Nan mang bát vào thành khất thực theo thứ tự từng nhà. Ban đầu, trong tâm mong được gặp người đàn việt cuối cùng để làm trai chủ. A-Nan không kể sang hèn, dòng dõi sang trọng, hay chiên-đà-la thấp hèn, đều thực hành tâm từ bi bình đẳng. Mong được thành tựu viên mãn công đức vô lượng cho tất cả chúng sinh. * A-Nan biết Như Lai quở trách Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp, là bậc A La Hán mà tâm không bình đẳng. A-Nan kính vâng lời khai thị không phân biệt của Đức Phật, để giúp chúng sinh thoát khỏi nghi ngờ và hủy báng. A-Nan thong thả đi qua hoàng thành rồi vào cổng, uy nghi nghiêm chỉnh theo đúng pháp hóa trai. Khi ấy A-Nan theo thứ tự khất thực từng nhà, đi qua nhà dâm nữ. Gặp phải đại huyễn thuật Ma-đăng-già dùng thần chú Ta tì ca la tiên Phạm thiên bắt A-Nan, ép làm chuyện dâm dục. Dựa kề vuốt ve khiến A-Nan sắp hủy phạm giới thể. Như Lai biết A-Nan bị dâm thuật kia gia hại nên thọ trai xong liền trở về. Vua cùng các quan đại thần trưởng giả cư sĩ đều theo Phật, mong được nghe pháp yếu. Khi ấy, trên đảnh Thế Tôn phóng ra trăm đạo hào quang vô úy quý báu sáng rỡ. Trong hào quang hiện ra hoa sen báu nghìn cánh, trên đó có hóa thân Phật đang ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú. Đức Phật dạy ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú đến cứu A-Nan. Khiến tà chú liền bị tiêu diệt, rồi dẫn A-Nan và con gái Ma Đăng Già về chỗ Phật. * A-Nan đảnh lễ Đức Phật, hối hận từ vô thỉ đến nay, chỉ một hướng thích học rộng nhớ nhiều, nên chưa được toàn vẹn đạo lực. Nay A-Nan ân cần cung kính thỉnh Phật truyền dạy pháp tu xa-ma-tha chỉ, tam-ma quán và thiền-na thiền là phương tiện vi diệu ban đầu của mười phương các đức Như Lai đã tu tập mà chứng được bồ-đề. Khi ấy có hằng hà sa Bồ Tát, các vị Đại A La Hán, Bích Chi Phật… trong khắp mười phương, đều mong mỏi được nghe. Tất cả ngồi im lặng chờ nghe lời Phật chỉ dạy. Khi ấy trong hội chúng, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay màu vàng xoa đảnh A-Nan, nói với A-Nan cùng đại chúng “Có pháp tam-ma-đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm vương, đầy đủ vạn hạnh. Là pháp môn trang nghiêm vi diệu mà mười phương Như Lai đều từ đó lưu xuất, nay ông nên nghe kỹ.” A-Nan đảnh lễ, cung kính lắng nghe lời dạy từ bi của Thế Tôn. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Vấn đáp về “Tâm” Đức Phật bảo A-Nan “Ông với Như Lai là anh em cùng một dòng họ. Khi mới phát tâm tu tập trong giáo pháp của Như Lai, ông thấy điểm thù thắng nào mà từ bỏ ân ái sâu nặng thế gian để xuất gia?” A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn, do con thấy ba mươi hai tướng tốt thù thắng vi diệu tuyệt vời của Như Lai, hình thể sáng chói trong suốt như ngọc lưu ly.” Con thường tự suy nghĩ những tướng tốt này không phải do ái dục mà sanh ra. Sao vậy? Vì dục khí thì thô nặng và dơ bẩn. Từ sự uế tạp và thối tha ấy giao hợp với nhau tạo thành một thứ tinh huyết hỗn tạp. Từ đó không thể sinh ra một thân thể thù thắng thanh tịnh, sáng chói vi diệu như khối vàng tía này. Do đó mà con khá́t ngưỡng, theo Phật xuất gia. * Đức Phật nói “Lành thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra chân tâm thường trụ. Thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân chuyển.” Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói cong vạy. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở trong thân A-Nan, nay tôi hỏi ông “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích ba mươi hai tướng tốt của Như Lai. Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì? A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do tâm và mắt của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.” Đức Phật bảo A-Nan “Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.” Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu. Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng tâm và mắt nay ở chỗ nào? A-Nan thưa “Bạch Đức Thế Tôn, tất cả mười loài dị sinh ở trong thế gian đồng cho rằng tâm ở trong thân. Con thấy dù con mắt sen xanh của Như Lai, cũng nằm ở trên mặt.” Nay con quan sát các căn thô phù của tứ trần này, chỉ ở trên mặt con. Và cũng quán sát như vậy, thức tâm thực là ở trong thân con. * Đức Phật bảo A-Nan “Nay ông hiện đang ngồi trong giảng đường cùng Như Lai, ông xem thấy vườn cây Kỳ-đà đang ở chỗ nào?” A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, giảng đường thanh tịnh nhiều tầng rộng lớn này là ở trong vườn ông Cấp Cô Độc. Còn rừng Kỳ Đà đúng là ở bên ngoài giảng đường. Đức Phật bảo A-Nan, nay đang ngồi trong giảng đường, trước hết ông thấy gì? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, con nay trong giảng đường, trước hết thấy Như Lai, rồi thấy đại chúng. Như thế nhìn ra ngoài, con thấy được rừng cây. Đức Phật bảo A-Nan A-Nan, khi ông thấy rừng cây là nhờ vào đâu mà thấy được? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, do các cửa của giảng đường này mở rộng, nên con ở trong giảng đường thấy suốt ra ngoài xa. * Đức Phật bảo A-Nan “Như ông vừa nói, ở trong giảng đường, do cửa mở rộng, nên có thể nhìn ra thấy được vườn rừng. Liệu có người ở trong giảng đường không thấy Như Lai, mà thấ́y được vật bên ngoài không? A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn, ở trong giảng đường, không thấy Như Lai, mà thấy được rừng suối là điều không thể có.” Đức Phật bảo A-Nan Này A-Nan, ông cũng như vậy. Tâm linh của ông thông suốt rõ ràng tất cả mọi vật. Nếu tâm hiện tiền thông suốt rõ ràng, ấy thật là ở trong thân ông, thì trước hết nó phải biết được những gì trong thân ông. Liệu có nơi nào thấy được trong thân trước rồi sau mới thấy cảnh vật bên ngoài chăng? Dù chẳng thấy tim, gan, tỳ, vị… nhưng móng tay mọc ra, tóc dài, gân chuyển, mạch đập, lẽ ra phải biết rõ. Tại sao chẳng biết? Nếu đã không biết chuyện bên trong thân, làm sao biết vật ngoài thân? Thế nên phải biết, ông nói tâm hiểu biết này ở bên trong thân, là không hợp lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở ngoài Thân A-Nan cúi đầu đảnh lễ bạch Phật “Bạch Đức Thế Tôn, con nghe lời khai thị của Như Lai như thế, nên nhận ra tâm con đúng là ở ngoài thân.” Tại sao? Ví như có ngọn đèn sáng ở trong nhà. Trước tiên chắc chắn phải soi chiếu trong nhà, rồi theo cửa mở, mới chiếu ra ngoài sân. Tất cả chúng sinh sở dĩ không thấy trong thân, mà chỉ thấy ngoài thân. Cũng giống như ngọn đèn sáng để ngoài nhà, nên không thể soi chiếu trong phòng được. Nghĩa này chắc đã rõ ràng, không có gì nghi ngờ và hoàn toàn đúng với nghĩa rốt ráo của Đức Phật. Như thế không biết có đúng chăng? Đức Phật bảo A-Nan “Các vị tỷ-khưu vừa rồi cùng Như Lai tuần tự khất thực trong thành Thất-la-phiệt, nay đã trở về rừng Kỳ Đà. Như Lai đã thọ trai xong, nay hỏi các tỷ khưu, khi một người ăn, các người khác có no không?” A-Nan thưa “Bạch Thế Tôn, không thể. Tại sao? Các vị tỷ-khưu này tuy đã chứng quả A La Hán, nhưng thân mạng không đồng. Làm sao một người ăn mà tất cả đều no được? * Đức Phật bảo A-Nan “Nếu cái tâm thấy nghe hiểu biết của ông thực ở ngoài thân, thì thân tâm tách biệt nhau, tự nó không liên quan với nhau. Vậy điều gì tâm biết thì thân ắt không biết, và những gì thân biết thì tâm không thể biết.” Nay Như Lai đưa cánh tay đâu la miên cho ông xem, khi mắt ông thấy, tâm ông có phân biệt chăng?” A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Đức Phật bảo A-Nan Nếu thân tâm cùng biết nhau, thế sao ông nói tâm ở ngoài thân?” Thế nên phải biết, ông nói tâm thấy nghe hiểu biết ở ngoài thân, thật không có lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở trong mắt A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy, vì chẳng thấy bên trong, nên tâm con chẳng phải ở trong thân. Vì thân tâm đều biết nhau, mà chẳng rời nhau nên tâm con chẳng phải ở ngoài thân. Nay con suy nghĩ, biết nó ở tại một chỗ. Đức Phật hỏi “Nay ở nơi nào?” A-Nan thưa “Do tâm rõ biết này chẳng biết những gì bên trong, mà lại thấy được những thứ bên ngoài. Như con suy xét, thì nó núp bên trong con mắt.” Ví như có người lấy chén lưu ly úp lên con mắt, tuy có vật phủ lên mà mắt chẳng bị ngăn ngại. Khi mắt thấy được, liền theo đó có sự phân biệt. Song cái tâm rõ biết của con chẳng thấy được bên trong, là vì nó ở trong con mắt. Nhưng nó vẫn thấy được vật bên ngoài rõ ràng không bị chướng ngại, là vì tâm núp sau con mắt. * Đức Phật bảo A-Nan Như ông vừa nói, tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén lưu ly. Vậy người kia sau khi úp chén lưu ly lên mắt mà xem thấy núi sông, thật có thấy chén lưu ly không? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn Đúng thế, khi người ấy úp chén lưu ly lên mắt, thật có thấy chén lưu ly. Đức Phật bảo “Nếu tâm ông giống như con mắt núp sau chén lưu ly, thì khi xem thấy núi sông, sao ông không thấy con mắt?” Nếu thấy được mắt thì mắt đồng như cảnh bị thấy. Như vậy chẳng thành nghĩa tùy thấy. Còn nếu chẳng thấy con mắt thì tại sao ông lại nói tâm hiểu biết này núp trong con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly? Thế nên phải biết, ông nói cái tâm hiểu biết suốt khắp núp trong con mắt giống như con mắt nấp sau chén lưu ly. Điều đó vô lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở trong ngoài thân A-Nan bạch Phật “Bạch Thế Tôn, nay con có suy nghĩ như vậy thân thể con người, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt ở ngoài. Nơi tạng phủ thì tối, nơi khiếu huyệt thì sáng. Nay con đối trước Phật, mở mắt thấy sáng, gọi là thấy bên ngoài, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy đúng chăng? Đức Phật bảo A-Nan Khi ông nhắm mắt thấy tối, bóng tối có sẵn ở trước mắt ông hay sao? Nếu có sẵn trước mắt ông thì bóng tối ấy là ở trước mắt ông, sao lại nói ở là bên trong? Nếu thật ở bên trong thì khi ông vào trong nhà tối không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn thì bóng tối trong phòng ấy là từ tam tiêu và ngũ tạng của ông hay sao? Còn nếu nó chẳng có trước mắt ông thì làm sao có nghĩa thấy? * Nếu bỏ qua cái thấy bên ngoài, mà cho rằng con mắt hướng vào bên trong nên thấy tối, thì khi nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy trong thân. Vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy được khuôn mặt? Nếu chẳng được thấy mặt thì chẳng có cái thấy bên trong. Nếu thấy được mặt thì cái tâm rõ biết này và con mắt phải ở ngoài hư không, làm sao ở phía trong được? Nếu ở ngoài hư không thì nó chẳng phải là tự thể của ông, thế nay Như Lai thấy được mặt ông. Như Lai cũng là thân của ông hay sao? Trong trường hợp đó, khi mắt ông biết thì thân ông vẫn không biết. Ắt là ông cho thân và mắt đều biết, thì phải thành hai cái biết. Tức là một thân của ông có thể thành hai vị Phật. Thế nên phải biết, khi ông nói thấy tối là thấy trong thân, điều ấy vô lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở chỗ Hòa hợp A-Nan thưa Con thường nghe Đức Phật dạy tứ chúng, do tâm sinh nên các pháp sinh, do pháp sinh nên các thứ tâm sinh. Nay con suy nghĩ, thì cái thể của suy nghĩ ấy thực là tâm con, tùy chỗ hoà hợp, tâm theo đó mà có, chẳng phải ba chỗ trong, ngoài và ở giữa. Đức Phật bảo A-Nan Nay ông nói do pháp sanh nên các thứ tâm sanh, tùy chỗ hòa hợp, tâm tùy theo đó mà có. Tâm ấy nếu có tự thể, chắc là không có chỗ hòa hợp. Nếu không có tự thể mà hòa hợp thì cũng giống như giới thứ mười chín hòa hợp với trần thứ bảy. Nghĩa ấy không đúng. Nếu tâm có tự thể, khi ông lấy tay gãi trên thân thì tâm ông có nhận ra cái biết từ bên trong thân ra, hay do ngoài thân mà có? Nếu từ trong thân ra thì phải trở lại thấy trong thân. Nếu từ ngoài vào thì trước hết phải thấy được mặt của ông. A-Nan thưa Thấy là ở con mắt, còn cái biết nơi tâm thì không phải do mắt, tâm thấy là không hợp lý. * Đức Phật bảo Giả sử như mắt có thể thấy thế khi ông ở trong nhà, cái cửa có thể thấy được chăng? Cũng thế, khi người chết, mắt họ vẫn còn, lẽ ra vẫn còn thấy được vật. Nếu thấy được vật, sao gọi là chết? Lại nữa A Nan, nếu tâm hiểu biết của ông có tự thể, thì có một thể hay nhiều thể? Nó ở nơi thân ông là khắp cả thân hay chẳng khắp cả thân? Nếu tâm chỉ có một thể thì khi ông lấy tay gãi một chỗ trên thân thì lẽ ra các nơi khác trên thân đều có cảm giác. Nếu tất cả thân phần đều có cảm giác, thì chỗ gãi không nhất định. Nếu chỗ gãi nhất định thì nghĩa tâm có một thể là không hợp lý. Nếu có nhiều thể thì thành ra có nhiều người. Vậy thể nào là của ông? Nếu ở khắp thân thì như đã nói trước đây, nếu chẳng khắp thân thì khi ông xoa đầu rồi sờ chân, nếu đầu biết thì chân phải không biết. Nhưng trường hợp này không đúng với ông. Thế nên phải biết, tùy chỗ hòa hợp, tâm theo đó mà hiện hữu là không hợp lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở chính giữa A-Nan bạch Phật Bạch Thế Tôn, con được nghe khi Thế Tôn cùng với ngài Văn Thù Sư Lợi và các vị pháp vương tử bàn về nghĩa thực tướng. Thế Tôn nói Tâm chẳng phải ở trong, cũng không phải ở ngoài. Theo con suy nghĩ, nếu tâm ở bên trong mà không thấy được vật bên trong, còn ở ngoài thì tâm và thân chẳng biết nhau. Vì tâm không biết ở trong, nên nghĩa ở trong không hợp lý. Vì thân tâm biết nhau, nên nói tâm ở ngoài cũng chẳng phải. Nay vì thân tâm biết nhau, và lại cũng không thấy được bên trong, nên tâm chắc chắn ở giữa. Đức Phật bảo Ông nói tâm ở giữa, chỗ ấy hẳn là không phải bỗng dưng mà có, hoặc không có vị trí nhất định. Nay ông phải xét kỹ, điểm giữa ấy là nơi nào? Là tại cảnh bên ngoài, hay là ở trên thân? Nếu điểm giữa ấy ở nơi thân, khi ở một bên thân thì chẳng phải là ở giữa. Nếu ở giữa thân thì đồng như ở trong thân. Nếu điểm giữa là nơi cảnh, thì điểm ấy nêu ra được hay không nêu ra được? Nếu không nêu ra được thì đồng như không có, còn nêu ra được thì điểm ấy không có vị trí nhất định. * Tại sao? Ví như có người cắm cây nêu để làm điểm giữa, nếu nhìn từ phương Đông thì cây nêu ở phía Tây, nếu nhìn từ phương Nam thì cây nêu ở phía Bắc. Tiêu điểm đã không rõ ràng thì tâm ông cũng thành rối loạn. A-Nan thưa Con nói điểm giữa, chẳng phải là hai thứ ấy. như Thế Tôn dạy, mắt gặp sắc trần, duyên sanh nhãn thức. Mắt thì có phân biệt, còn sắc trần thì vô tri. Thức phát sinh trong khoảng giữa ấy, đó chính là tâm con. Đức Phật bảo Tâm ông nếu ở khoảng giữa căn và trần, vậy tâm thể ấy gồm cả hai bên, hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm cả hai bên thì căn trần lẫn lộn. Trần thì không biết, căn thì có biết, hai thứ đối lập nhau. Chỗ nào gọi là điểm giữa? Gồm cả hai bên cũng không được, vì không phải có biết và cũng không phải không có biết, tức là không có thể tánh. Điểm giữa ấy lấy gì làm tướng? Thế nên phải biết tâm ở chặng giữa là không có lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp Tâm ở cái không dính mắc A-Nan bạch Phật Bạch Thế Tôn, xưa nay con thấy Phật cùng bốn vị đệ tử lớn là ngài Đại Mục Kiền Liên, Tu bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lợi-phất cùng chuyển pháp luân. Đức Phật thường nói tâm tánh hiểu biết phân biệt không phải ở trong, không phải ở ngoài, không phải ở chặng giữa, đều không có nơi chỗ. Hết thảy đều không dính mắt, đó gọi là tâm. Vậy cái không dính mắc của con có được gọi là tâm chăng? Đức Phật bảo A-Nan Ông nói bản tánh của tâm hiểu biết phân biệt này đều không ở tại đâu cả. Vậy các vật có hình tướng trên thế gian như hư không và các loài thủy, lục, không, hành… tất cả các vật. Cái dính mắc mà ông nói đó là hiện hữu hay không hiện hữu? Nếu không hiện hữu thì đồng như lông rùa sừng thỏ. Sao gọi là không dính mắc? Nếu đã có cái không dính mắc thì không thể gọi là không. Không tướng thì không. Chẳng không thì phải có tướng. Có tướng thì phải có chỗ nơi, làm sao lại nói là không dính mắc? Thế nên phải biết tất cả cái không dính mắc mà gọi là tâm hiểu biết, là không có lý. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Vọng Tâm – Tâm Phân Biệt Khi ấy A-Nan ở trong đại chúng, đứng dậy bày vai áo bên phải, đầu gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật Con là em nhỏ nhất của Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn thương yêu, nay tuy con đã xuất gia, nhưng vẫn còn ỷ lại lòng yêu thương của Thế Tôn, do đó chỉ được đa văn mà chưa được quả vô lậu. Nên con không thể chiết phục được chú thuật Ta-tỳ-ca-la, bị nó xoay chuyển và sa vào nhà dâm, tất cả chỉ vì không biết chỗ quy hướng chân tâm. Cúi mong đức Thế Tôn mở rộng lòng từ, thương xót chỉ dạy cho chúng con, pháp tu thiền định xa-ma-tha, khiến cho hàng nhất-xiển-đề và miệt-lệ-xa thoát khỏi tà kiến. Sau khi thưa thỉnh, A-Nan gieo năm vóc xuống đất, cùng toàn thể đại chúng kính cẩn đứng trông chờ được nghe lời chỉ dạy của Đức Phật. Khi ấy từ trên cửa mặt khoảng giữa hai chân mày của Đức Thế Tôn phóng ra các thứ hào quang. Các hào quang ấy sáng chói như trăm ngàn mặt trời. * Sáu điệu chấn động khắp các cõi Phật. Mười phương cõi nước như số vi trần đồng thời hiện ra. Do oai thần của Phật, khiến các thế giới vi trần ấy hợp thành một cõi. Trong các cõi nước ấy, các vị Đại Bồ Tát ở nơi quốc độ của mình đều chắp tay lắng nghe lời Phật dạy. Đức Phật bảo A-Nan Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo các thứ điên đảo, tự nhiên tạo thành các giống nghiệp như chùm hạt ác-xoa. Những người tu hành không thành được đạo vô thượng bồ-đề, mà chỉ thành Thanh Văn, Duyên Giác; Hoặc thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma… Đều do không biết hai món căn bản, nên tu tập sai lầm. Họ cũng như người nấu cát mà mong thành cơm. Dù có trải qua nhiều kiếp như vi trần nhưng rốt ráo vẫn không thể đạt được những gì mong muốn. Những gì là hai món căn bản? * A-nan, một là căn bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh. Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ đề niết bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi các duyên bị ông quên mất. Do các chúng sinh bỏ quên tánh bản minh này, tuy trọn ngày mình sử dụng nó mà chẳng tự biết, nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi. A-Nan, nay ông muốn biết con đường tu tập thiền định, với ước nguyện được thoát khỏi sinh tử, tôi lại hỏi ông. Như Lai đưa cánh tay sắc vàng lên, co năm ngón tay lại rồi Đức Phật hỏi A-Nan, Ông có thấy chăng? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, con có thấy. Đức Phật hỏi Ông thấy cái gì? A-Nan đáp Con thấy Như Lai đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt của con. Đức Phật hỏi Ông lấy cái gì để thấy? A-Nan thưa Cả đại chúng và con đều thấy bằng mắt. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Chấp suy nghĩ Phân biệt làm Tâm Đức Phật bảo A-Nan; Như ông vừa trả lời, nói rằng Như Lai co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt ông. Mắt ông có thể thấy được, nhưng ông lấy gì làm tâm để cho nắm tay sáng chói chiếu vào? A-Nan thưa Đức Phật gạn hỏi tâm ở chỗ nào, nay con dùng tâm suy xét cùng tột để tìm kiếm. Con cho rằng chính cái biết suy nghĩ tìm kiếm ấy là tâm con. Đức Phật bảo Sai rồi A-Nan, đó chẳng phải là tâm ông. A-Nan giật mình, rời chỗ ngồi, đứng dậy chắp tay bạch Phật Đó chẳng phải là tâm của con, vậy thì nó là gì?` Đức Phật bảo A-Nan Đó là sự tưởng tượng những tướng giả dối của tiền trần, nó làm mê mờ chân tánh của ông. Do từ vô thỉ đến nay, ông nhận giặc này làm con, bỏ mất tánh nguyên thường nên phải chịu luân hồ̀i. A-Nan bạch Phật Bạch Đức Thế Tôn, con là em của Phật, vì tâm kính yêu Phật nên con xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai mà còn trải qua nhiều quốc độ như cát sông Hằng, thừa sự chư Phật và thiện tri thức. Phát tâm đại dõng mãnh, làm tất cả những pháp sự khó làm là đều vận dụng tâm này. Dù con có hủy báng Phật pháp, rời bỏ thiện căn, cũng do tâm này. * Nay Đức Phật chỉ rõ cái ấy không phải là tâm, thì con thành ra không có tâm, như gỗ như đá. Vì ngoài cái hay biết ấy ra, con chẳng còn gì khác nữa. Sao Như Lai lại bảo cái ấy chẳng phải là tâm? Con thật kinh sợ và trong đại chúng ai cũng nghi hoặc. Cúi xin Đức Phật rủ lòng từ bi chỉ dạy cho những người chưa được giác ngộ. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn chỉ dạy cho A-Nan và cả đại chúng, muốn cho tâm họ được vô sanh pháp nhẫn. Từ nơi toà sư tử, Đức Phật xoa đầu A-Nan rồi Đức Phật bảo rằng Như Lai thường nói các pháp phát sinh đều do từ tâm biểu hiện. Tất cả nhân quả và thế giới nhiều như vi trần đều nhân nơi tâm mà có thể tánh. A-Nan, như tất cả sự vật hiện hữu trong thế giới từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, nút thắt … Khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều có thể tánh. Cho đến như hư không cũng có tên gọi và dáng mạo. Huống gì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là bản chất của tất cả mọi tâm niệm mà tự nó lại không có thể tánh hay sao? * Nếu ông chấp chặt tánh phân biệt hiểu biết, cho đó là tâm; Thì tâm này khi rời tất cả sắc thanh, hương, vị xúc, thì tâm ấy phải riêng có toàn tánh. Như ông nay nghe pháp của Như Lai, đó là nhân âm thanh mà có sự phân biệt. Dù có diệt hết cái thấy, nghe, hiểu, biết mà giữ được sự thanh thản, lặng lẽ bên trong, đều do bóng dáng của sự phân biệt pháp trần vẫn còn. Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm. Nhưng ông phải suy xét chính chắn, nếu có một thể tánh phân biệt khi rời hẳn tiền trần thì đó chính là tâm ông. Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn tự thể thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần. Trần ấy chẳng phải là thường trụ, khi nó biến diệt thì cái tâm ấy cũng như lông rùa sừng thỏ. Ắt pháp thân ông cũng đồng như đoạn diệt. Ai là người tu chứng vô sanh pháp nhẫn? Lúc ấy A-Nan cùng toàn thể đại chúng đều im lặng, ngơ ngác. Đức Phật bảo A-Nan Tất cả mọi người tu học trong thế gian, mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định; Nhưng không hết sạch mê lầm, thành bậc A La Hán; Đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt, lầm cho đó là tính chân thực. Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa thành thánh quả. * A-Nan nghe rồi đau xót khóc lóc, gieo năm vóc sát đất, quỳ xuống chắp tay bạch Phật. Từ khi con phát tâm xuất gia theo Phật, chỉ biết ỷ lại vào oai thần của Phật. Con thường nghĩ rằng, khỏi phải nhọc công tu hành làm gì, hy vọng Như Lai sẽ ban cho con chánh định. Con không tự biết thân và tâm của Phật và con chẳng thay thế cho nhau được. Vậy nên con tự đánh mất bản tâm, tuy thân đã xuất gia mà tâm chẳng nhập đa. Con như người cùng tử bỏ cha trốn đi. Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều, nếu chẳng tu hành thì cũng như chưa nghe. Như người chỉ nói đến thức ăn, rốt cục chẳng được no bụng. Bạch Thế Tôn! Nay chúng con đều bị trói buộc bởi hai thứ chướng ngại, do chẳng biết tâm tánh vốn thường hằng vắng lặng. Cúi mong Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng cơ cực, làm phát khởi tâm nhiệm mầu sáng suốt, mở bày mắt đạo cho chúng con. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tánh Thấy chẳng phải là Mắt Khi ấy từ chữ vạn ở trên ngực Như Lai phóng ra hào quang báu, ánh sáng rực rỡ với trăm ngàn màu sắc, chiếu sáng đồng thời suốt khắp mười phương thế giới chư Phật nhiều như số vi trần. Hào quang ấy rót xuống trên đảnh các đức Như Lai ở các cõi Phật trong khắp mười phương. Xoay về soi đến A-Nan và toàn thể đại chúng. Rồi Đức Phật bảo A-Nan Nay Như Lai vì ông dựng lập pháp tràng lớn. Khiến cho tất cả chúng sinh khắp mười phương đạt được tâm tánh trong sạch, sâu kín nhiệm mầu và đạo nhãn thanh tịnh. A-Nan, trước đây ông đã trả lời rằng thấy nắm tay chói sáng. Vậy nắm tay này nhân đâu mà có? Làm sao nắm tay trở nên sáng chói? Ông lấy cái gì để thấy? A-Nan thưa Thân của Phật như vàng diêm-phù-đàn sáng ngời như núi báu. Do đức tính thanh tịnh sinh ra, vậy nên có hào quang chói sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy năm ngón tay Phật co lại thành nắm tay, đưa lên cho mọi người xem. Đức Phật bảo A-Nan Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông. Những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ. A-Nan, ví như nắm tay của Như Lai, nếu không có bàn tay thì chẳng thành nắm tay. Nếu không có mắt thì ông không thể thấy. Áp dụng ví dụ nắm tay của Như Lai và cái thấy từ mắt ông có giống nhau chăng? * A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, đúng như vậy. Nếu không có mắt thì không thành cái thấy. Nếu đem ví dụ nắm tay của Phật so với cái thấy từ mắt của con, nghĩa ấy như nhau. Đức Phật bảo A-Nan Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Sao vậy? Nếu một người không có tay thì hẳn nhiên là không có nắm tay. Nhưng những người mù, chẳng phải họ hoàn toàn không có cái thấy. Bởi tại sao? Ông thử ra đường hỏi những người mù mắt Ông thấy gì không? Các người mù chắc chắn sẽ đáp Nay tôi chỉ thấy một màu tối đen trước mắt, ngoài ra không thấy gì khác. Theo nghĩa ấy mà quán xét thì đã rõ. Người mù thấy màu tối đen phía trước, chứ cái thấy của họ đâu có thiếu mất. A-Nan thưa Cái duy nhất mà người mù có thể thấy được trước mắt là màu tối đen. Sao có thể gọi là thấy được? Đức Phật bảo A-Nan Có gì khác nhau giữa màu tối đen mà người mù thấy được và màu tối đen mà người sáng mắt nhìn thấy khi họ ở trong phòng tối? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Hai màu tối đen, một do người ở trong phòng tối thấy và một do người mù thấy không có gì khác nhau. * Đức Phật bảo A-Nan, nếu người mù chỉ thấy được màu tối đen khi bỗng dưng được sáng mắt lại, thấy được đủ loại sắc tướng. Ông gọi đó là do mắt thấy. Và khi người ở trong phòng tối kia, chỉ thấy phía trước hoàn toàn tối đen, bỗng dưng thấy được mọi vật nhờ có đèn sáng. Lẽ ra nên gọi đèn thấy là đúng hơn. Nếu cái thấy do đèn thì đèn đã có được cái thấy, nên chẳng gọi là đèn; Và nếu là đèn thấy thì quan hệ gì đến ông? Thế nên phải biết, đèn làm hiển lộ các vật thể. Còn cái thấy đó là do ở mắt, chứ không phải đèn. Khi mắt nhận rõ các vật thể thì tánh thấy đó chính là tâm, chẳng phải là mắt. Mặc dù A-Nan và đại chúng được nghe đức Phật chỉ dạy như vậy. Nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn im lặng, mong Như Lai dùng lời từ bi chỉ dạy thêm. Nên đứng chắp tay, lắng lòng trông chờ Đức Phật thương xót chỉ bày. Khi ấy, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay đâu-la miên sáng chói, xoè năm ngón tay, bảo A-Nan cùng toàn thể đại chúng Khi mới thành đạo, Như Lai đến vườn Lộc uyển, có dạy cho năm anh em tỷ khưu A-nhã Kiều-trần-như cùng ông và tứ chúng rằng Tất cả chúng sinh bị mê hoặc bởi khách trần phiền não nên chẳng được giác ngộ, chẳng chứng quả A La Hán. Lúc đó các ông nhân đâu mà được khai ngộ, thành tựu quả vị thánh? * Rồi A-nhã Kiều-trầ̀n-na đứng dậy bạch Phật Nay hàng trưởng lão trong đại chúng, chỉ riêng con được danh hiệu là Giải. Nhờ ngộ được nghĩa hai chữ khách trần mà thành tựu quả vị. Bạch Thế Tôn, như người du khách dừng chân nghỉ lại một quán trọ bên đường để ngủ qua đêm hoặc chỉ ăn một bữa. Khi việc lưu trú hoặc ăn uống đã xong, họ liền chuẩn bị hành lý lên đường, không ở lại nữa. Nếu họ thật là người chủ thì chẳng phải đi đâu. Như thế mà suy sét, người chẳng dừng nghỉ lâu gọi là khách, người dừng trụ lâu gọi là chủ. Do không dừng trụ, nên có nghĩa là khách. Lại như khi mưa vừa mới tạnh, mặt trời lấp lánh trên cao; Tia sáng chiếu vào nhà thông qua khe cửa, làm hiện rõ các hạt bụi trong hư không. Bụi trần lay động, còn hư không thì yên lặng. Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không lay động là trần. Do lay động mà có nghĩa là trầ̀n. Đức Phật bảo Đúng như thế! Khi ấy ở trong đại chúng, Như Lai co năm ngón tay lại, co rồi lại mở, mở rồi lại co. Đức Phật hỏi A-Nan rằng – Nay ông thấ́y gì? A-Nan thưa Con thấy bàn tay bách bảo luân của Như Lai, xoè ra nắm lại giữa hội chúng. * Đức Phật bảo A-Nan Ông thấy tay Như Lai xoè ra nắm lại trong đại chúng. Đó là tay Như Lai xoè ra nắm lại, hay cái thấ́y của ông có xoè ra nắm lại? A-Nan thưa Bàn tay báu của Thế Tôn có xoè nắm trong đại chúng. Con thấy bàn tay của Như Lai tự xoè ra nắm lại, chớ chẳng phải tánh thấy của con có xoè nắm. Đức Phật hỏi Cái nào động, cái nào tịnh? A-Nan thưa Bàn tay Phật không dừng nghỉ. Còn tánh thấy của con còn chẳng có ý niệm về sự yên tĩnh, làm sao còn có động? Đức Phật đáp Đúng như vậy! Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như Lai phóng ra một đạo hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A-Nan. A-Nan liền quay đầu qua bên phải để nhìn. Đức Phật lại phóng hào quang khác qua phía vai bên trái. A-Nan liền quay đầu về bên trái để nhìn. Đức Phật bảo A-Nan Nay đầu ông tại sao lay động? * A-Nan thưa Con thấy Như Lai phóng đạo hào quang báu chiếu vào vai bên phải rồi vai bên trái của con, nên đầu con tự lay động. Đức Phật bảo A-Nan, khi ông nhìn hào quang của Như Lai, đầu ông xoay qua hai bên vai, thì đầu ông động hay cái thấy của ông động? A-Nan thưa Bạch Thế Tôn, chính đầu con động, bởi tánh thấy của con còn không có ý niệm dừng chỉ, làm sao có động? Đức Phật nói Đúng như vậy! Khi ấy Đức Phật lại bảo khắp đại chúng Giả sử có người khác gọi cái động là trần, cái không dừng trụ gọi là khách.” Các ông lưu ý rằng chính đầu của A Nan dao động chứ cái thấy không dao động. Các ông cũng để ý rằng tay Như Lai có co mở, chứ cái thấy không co mở. Tại sao nay các ông vẫn còn nhận cái động làm thân và nhận các cảnh làm hiện thể? Nên từ đầu đến cuối, các ông ở trong niệm niệm sinh diệt. Các ông bỏ mất chân tánh, làm những việc điên đảo. Đã đánh mất tâm tánh chân thật rồi, còn nhận vật làm chính mình, nên chính mình bị trôi lăn theo vòng lưu chuyển. Kinh Lăng Nghiêm – Hết quyển 1
Để bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm được truyền sang Trung Quốc, ngài Bát Lạt Mật Đế đã xẻ bắp tay của chính mình để nhét bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm vào rồi may lại, ngài đã lọt qua sự kiểm soát gắt gao của các trạm kiểm soát ở biên giới Ấn Độ. Và cuối cùng bộ Kinh đã được truyền sang Trung Quốc cho chúng ta ngày nay được thọ trì. _❤️_ “Hậu hiền các vị ai hiểu được?Xem kinh sao lại quá tầm thường!!!”Sakya Minh Quang dịch Post Views 252
Chuyển tới nội dung Thuyết PhápTruyện PhậtKinh PhậtPhật PhápPhim PhậtNhạc thiềnNhạc PhậtHình PhậtSách nóiSuy ngẫmThuyết PhápTruyện PhậtKinh PhậtPhật PhápPhim PhậtNhạc thiềnNhạc PhậtHình PhậtSách nóiSuy ngẫmPhim Kinh Thủ Lăng Nghiêm Shurangama Mantra Movie thuyết minh tiếng thêm Chú Lăng Nghiêm Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm2 bình luận trong “Phim Kinh Thủ Lăng Nghiêm”Xin cảm ơn đạo hữu đã giới thiệu bộ phim này. Tuy nhiên thỉnh thoảng phim lại mất tiếng đạo hữu ạNam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ TátTrả lời Developed by
Tên Anh Śūraṅgama Mantra Tên Phạn Sitātapatra Uṣṇīṣa Dhāraṇī Bánh xe Lăng Nghiêm Đà La Ni Bạch Tản Cái Phật Đỉnh Đà La Ni còn được biết là Chú Lăng Nghiêm bên pháp môn Đại Thừa. Tên Anh White Parasol Crown Dhāraṇī White Canopy Dhāraṇī White Umbrella Mantra Nguồn ảnh padmakumara Update mới nhất 10/03/2020. Chú Lăng Nghiêm viết bằng tiếng việt có ở phía dưới play_circle_filled pause_circle_filled Phật thuyết UY LỰC CỦA CHÚ LĂNG NGHIÊM trích Kinh Lăng Nghiêm Q7 và Q10 save_alt play_circle_filled pause_circle_filled Chú Lăng Nghiêm - Linh văn của Trời Đất Cẩm nang dành cho người tu học Chú Lăng Nghiêm save_alt Cẩm nang dành cho người tu học Chú Lăng Nghiêm – HT. Tuyên Hóa – Chú Lăng Nghiêm – Linh Văn Của Trời Đất – Xem full text tại play_circle_filled pause_circle_filled Śūraṅgama Sanskrit Mantra Recited by Chen save_alt Nghe trì tụng chú Lăng Nghiêm Phạn Phim Kinh Thủ Lăng Nghiêm Thuyết MinhĐể bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm được truyền sang Trung Quốc, ngài Bát Lạt Mật Đế đã xẻ bắp tay của chính mình để nhét bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm vào rồi may lại, ngài đã lọt qua sự kiểm soát gắt gao của các trạm kiểm soát ở biên giới Ấn Độ. Và cuối cùng bộ Kinh đã được truyền sang Trung Quốc cho chúng ta ngày nay được thọ trì. _❤️_ “Hậu hiền các vị ai hiểu được? Xem kinh sao lại quá tầm thường!!!”Sakya Minh Quang dịch Lăng Nghiêm Tâm Chú 楞嚴心咒 – Śūraṅgama Heart Mantra Quan trọng của thần chú Lăng Nghiêm – Hòa Thượng Tuyên Hóa Nếu trên thế gian này, không còn người nào tụng Chú Lăng Nghiêm, thì Ma Vương sẽ xuất hiện. Nếu còn một người trì tụng, thì thiên ma Ba Tuần không dám xuất hiện. Vì chúng chỉ sợ nhất là Chú Lăng Nghiêm. Chúng muốn tiêu diệt nhất là Chú Lăng Nghiêm. Khi pháp bắt đầu diệt, thì Chú Lăng Nghiêm sẽ mất trước nhất, kể cả Kinh Lăng Nghiêm. Lúc đó thiên ma Ba Tuần sẽ xuất hiện, hoành hành đầy rẫy khắp nơi. Lúc ấy sẽ không có trời đất, không có Phật, chúng tuyệt đối chẳng sợ gì. Cho nên tôi khuyên mỗi người Phật tử, tại gia và xuất gia học thuộc lòng Chú Lăng Nghiêm và trì tụng mỗi ngày. Đây chính là hộ pháp và khiến cho pháp tồn tại lâu dài Đừng xem thường không có ý nghĩa và quan hệ gì. Âm Hán Việt Nam Mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Điệt Tha, Án-A Na Lệ Tỳ XáĐề Bệ Ra Bạt Xà Ra Đà Đà Bàn Đà Nễ, Bạt Xà Ra Báng Ni PhấnHổ Hồng Đô Lô Ung Phấn, Ta Bà Ha. play_circle_filled pause_circle_filled Minh Hạnh có thâu âm trì tụng Lăng Nghiêm Tâm Chú Âm Hán. Phạn Tadyathā Oṃ anale viśade vīra-vajra-dhare bandha bandhani vajra-pāniḥ phaṭ hūṃ trūṃ phaṭ svāhā. Phiên âm Việt TA DI DA THA ÔM A NA LÊ, VI SA ĐÊ, VI RA, VA CHA ĐA RÊ, BẤN ĐÀ, BẤN ĐÀ NÊ, VA CHA BA NI PHẾT, HÙM RÙM PHẾT, SÔ HA. Hán 南無楞嚴會上佛菩薩 跢 姪 他唵阿那隸毗舍提鞞囉跋闍囉陀唎槃 陀槃陀你跋闍囉謗尼泮虎合/牛都嚧甕泮莎婆訶 Hòa Thượng Tuyên Hóa Và cuối cùng, có pháp hàng phục. Thiên ma có thần thông diệu dụng và chúng cũng có thần chú. Bạn trì tụng thần chú của bạn và chúng cũng trì tụng thần chú của chúng . Nhưng khi bạn tụng Chú Lăng Nghiêm, bạn sẽ phá vỡ tất cả các thần chú của chúng và hàng phục chúng . Bạn dùng năng lực làm cho chúng khuất phục và không dám tác quái. Trước đây tôi đã nói với bạn Chú Lăng Nghiêm có một vài đoạn phá vỡ lưới ma. Tại sao chú Phạm Thiên bị phá hủy không còn công lực? Đó là vì Ngũ Đại Tâm Chú. Ngũ Đại Tâm Chú tiêu diệt các phép thuật của thiên ma ngoại đạo. Không quan trọng chúng sử dụng thần chú nào, khi bạn trì tụng những đoạn thần chú này, phép thuật của chúng sẽ bị phá hủy và không còn hiệu quả. Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm vi diệu không thể nghĩ bàn. Thần chú nầy hay hàng phục thiên ma và chế ngự ngoại đạo . Từ đầu đến cuối, mỗi câu đều là pháp môn tâm địa của Chư Phật ; mỗi câu có mỗi công dụng ; mỗi chữ có mỗi điểm thâm áo vi diệu ; tất cả đều có thần lực không thể nghĩ bàn. Chỉ cần tụng niệm một câu, một chữ, một hội một đệ hoặc toàn bài Chú cũng đều khiến cho trời rung đất chuyển, quỷ thần khóc, yêu ma lánh xa, ly mị độn hình. Ánh hào quang trên đảnh nhục kế của Đức Phật biểu thị cho thần lực của Thần Chú, tức là có khả năng phá trừ tất cả màn đêm tăm tối và khiến cho hành giả thành tựu tất cả công đức lành. Nếu thọ trì Thần Chú nầy thì tương lai nhất định sẽ thành Phật, chứng đắc quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nếu thường trì tụng Thần Chú nầy thì sẽ tiểu trừ nghiệp chướng trong bao đời tiền kiếp. Đó là diệu dụng của Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm. Śūraṅgama Mantra Assembly of Buddhas and Gods Thần Chú Lăng Nghiêm PhạnĐầy đủ, dài hơn, toàn bộ, và mạnh hơn để trì tụng. Ệ NHẤT Namaḥ sarva buddha bodhi-satve-bhyaḥNamaḥ saptānāṃ samyak-saṃbuddha koṭīnāṃ sa-śrāvaka saṃghānāṃ Namo loke arhattāṃNamaḥ srotāpannānāṃNamaḥ loke samyag-gatānāṃ samyak-prati-pannānāṃNamo devarṣiṇāṃNamaḥ siddha-vidyā-dhāra-rṣiṇāṃ, śāpānugraha-samarthānāṃ. Namo brahmaṇe. Namaḥ bhagavate rudrāya bhagavate nārāyaṇāya, lakṣmi paṃca-mahā-mudrā namas-kṛtāya. Namo bhagavate mahā-kālāya, tripura-nagara-vidrāpaṇa-karāya, adhi-muktaka śmaśāna-vāsine, mātṛ-gaṇa bhagavate tathāgata bhagavate padma bhagavate vajra bhagavate maṇi bhagavate bhagavate dṛḍha-śūra-sena-pra-haraṇa-rājāya, tathāgatāya arhate bhagavate amitābhāya, tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya. Namo bhagavate akṣobhyāya, tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya. Namo bhagavate bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabha-rājāya, tathāgatāya arhate bhagavate saṃpuṣpita-sālendra-rājāya,tathāgatāya arhate bhagavate śākyamunaye,tathāgatāya arhate bhagavate ratna-kusuma-ketu-rājāya,tathāgatāya arhate samyak-saṃbuddhāya. Teṣāṃ namas-kṛtva imāṃ bhagavata stathāgatoṣṇīṣaṃ, Sitātapatraṃ namāparājitaṃ pratyaṅgirāṃ. Sarva bhūta-graha vidyā bandhana duṣṭa duḥ-svapna nivāraṇīṃ. Caturaśītīnāṃ graha sahsrāṇāṃ vi-dhvaṃsana-karīṃ. Aṣṭā-viṃśatināṃ nakśatrāṇāṃ vi-dhvaṃsana-karīṃ. Sarva śatrū duḥ-svapnānāṃ ca śastra agni uttaraṇīṃ. Aparājitaṃ mahā-ghorāṃ, Mahā-balām mahā-caṇḍāṃ mahā-dīptaṃ mahā-tejaṃ, Mahā-śvetām mahā-jvalaṃ mahā-balā pāṇḍara-vāsinī Ārya-tārā bhṛkuṭīṃ ceva vijaya vajra-maleti vi-śrutāṃ, Padmaṃkaṃ vajra-jihva ca mālā-cevāparājita, Vajrā daṇḍīṃ viśālā ca śanta vaideva-pūjitāṃ, Saumya-rūpaṃ mahā-śvetā,Ārya-tārā mahā-bala aparā vjra śaṇkalā ceva, Vajra kaumāri kulan-dharī, Vajra hastā ca mahā-vidyā kāṃcana mālikā, Kusuṃbhā ratna ceva vairocanā kulāthadāṃ uṣṇīṣa, vi-jṛmbha-mānā ca savajra kanaka prabha locana, vajrā tuṇḍī ca śvetā ca kamalākṣī śaśī-prabha, ityete mudra gaṇā, sarve rakṣaṃ kurvantu mama sarva satvānāṃ ca. Ệ NHỊ Oṃ ṛṣi-gaṇa praśāstaya sarvatathāgatoṣṇīṣāya hūṃ hūṃ hūṃ hūṃ hūṃ saṃ-bhakṣaṇa-kara hūṃ duṣṭānāṃ stambhana-kara hūṃ yakṣa rākṣasa grahāṇāṃ, vi-dhvaṃsana-kara hūṃ trūṃ. Caturaśītīnāṃ graha sahasrāṇāṃ. vi- dhvaṃsana-kara hūṃ trūṃ. Aṣṭā-viṃśatīnāṃ nakṣatrānāṃ pra-sādana-kara hūṃ trūṃ. Aṣṭānāṃ mahā-grahāṇāṃ utsādana-kara hūṃ trūṃ. Rakṣa rakṣa stathāgatoṣṇīṣasitātapatra mahā vajroṣṇīṣa,mahā pratyaṅgire mahā sahasra-bhuje sahasra-śīrṣe. koṭī-śata sahasra-netre, abhedya jvalitā-taṭaka, mahā-vjrodāra tṛ-bhuvana svastir bhavatu māṃ mama. Ệ TAM Rāja-bhayā cora-bhayā udaka-bhayā agni-bhayā, viṣa-bhayā śastra-bhayā para-cakra-bhayā du-bhikṣa-bhayā, aśani- bhayā akāla-mṛtyu-bhayā dharaṇī-bhūmi-kampā-bhayā ulkā-pāta-bhayā, rāja-daṇḍa-bhayā suparṇi-bhayā nāga-bhayā vidyut-bhayā. Deva-grahā nāga-grahā yakṣa-grahā rākṣasa-grahā preta-grahā, piśāca-grahā bhūta-grahā kumbhaṇḍa-grahā pūtana-grahā, kaṭa-pūtana-grahā skanda-grahā apasmāra-grahā utmāda-grahā, cchāya-grahā revati-grahā jamika-grahā garbhāhāriṇyā jātāhāriṇyā jīvitāhāriṇya, rudhirāhāriṇyā vasāhāriṇyā māṃsāhāriṇyā medāhāriṇyā, majjāhāriṇyā vāntāhāriṇyā asucyāhāriṇyā ciccāhāriṇyā, teṣāṃ grahāṇāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi. Pari-brajāka kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi. Ḍāka-ḍākinī kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi Mahā-paśupati rudra kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi. Nārāyaṇā paṃca mahā mudrā kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi Tatva garuḍa sahīyāya kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi Mahā-kāla mātṛgaṇa sahīyāya kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi. Kāpālika kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi madhukara sarvārtha-sādhaka kṛtāṃ,vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmiCatur-bhaginī bhratṛ-paṃcama sahīyāya kṛtāṃ,vidyāṃ cchinda-yāmi nandi-keśvara gaṇapati sahīya kṛtāṃ,vidyāṃ cchinda-yāmi kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi. Arhanta kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi. Vajra-pāṇi guhyakādhipati kṛtāṃ vidyāṃ cchinda-yāmi kīla-yāmi. Rakṣa rakṣa māṃ. Ệ TỨ Bhagavata stathāgatoṣīṣaṃ sitātapatraṃ namo-stute. Asitānalārka prabha-sphuṭa jvala dhaka-khaka vidhaka-vidhaka dara dara vidara vidara, cchinda cchinda bhinda bhinda, hūṃ hūṃ phaṭ! phaṭ! svāhā. Hehe phaṭ. Amogha phaṭ. Apratihata phaṭ. Vara-prada phaṭ. Asura vidrāpaka phaṭ. Sarva deve-bhyah phaṭ. Sarva nāge-bhyaḥ phaṭ Sarva yakṣe-bhyaḥ phaṭ. Sarva rākṣase-bhyaḥ garuḍe-bhyaḥ phaṭ. Sarva gāndharve-bhyaḥ asure-bhyaḥ phaṭ. Sarva kindare- bhyaḥ mahorage- bhyaḥ phaṭ. Sarva manuṣe- bhyaḥ amanuṣe- bhyaḥ phaṭ. Sarva bhūte- bhyaḥ piśāce- bhyaḥ phaṭ. Sarva kumbhaṇḍe- bhyaḥ phaṭ. Sarva pūtane- bhyaḥ phaṭ. Sarva kaṭa-pūtane- bhyaḥ phaṭ. Sarva dur-laṅghite- bhyaḥ phaṭ. Sarva duṣ-prekṣite- bhyaḥ phaṭ. Sarva jvare- bhyaḥ phaṭ. Sarva apasmāre- bhyaḥ śramaṇe- bhyaḥ phaṭ. Sarva tirthike- bhyaḥ phaṭ. Sarva utmāde- bhyaḥ phaṭ. Sarva vidyā-rājācārye- bhyaḥ phaṭ. Jayakarā madhukara sarvārtha-sādhake- bhyaḥ vidyācārye- bhyaḥ phaṭ. Catur bhaginī- bhyaḥ phaṭ. Vajra kaumārī kulan-dharī mahā-vidyā-rājebhyaḥ phaṭ. Mahā-pratyaṅgire-bhyaḥ phaṭ. Vajra śankalāya phaṭ. Mahā-pratyaṅgira-rājāya mahā-mātṛ-gaṇa namas-kṛtāya phaṭ. Vaisnavīye phaṭ. Brahmaṇīye phaṭ. Agnīye phaṭ. Mahā-kālīye phaṭ. Kāla-daṇḍīye phaṭ. Indrīye phaṭ. Raudrīye phaṭ. Cāmuṇḍīye phaṭ. Kāla-rātrīye phaṭ.. Kāpālīye phaṭ. Adhi-muktaka śmaśāna vāsinīye satva mama. Duṣṭa-cittā pāpa-cittā raudra-cittā vi-dveṣa amaitra-cittā. Utpāda-yanti kīla-yanti mantra-yanti japanti juhvanti. Ojāhārā garbhāhārā rudhirāhārā vasāhārā, majjāhārā jātāhārā jīvitāhārā malyāhārā, gandhāhārā puṣpāhārā phalāhārā sasyāhārā. Pāpa-cittā duṣṭa-cittā raudra-cittā. Yakṣa-graha rākṣasa-graha preta-graha piśāca-graha, bhūta-graha kumbhaṇḍa-graha skanda-graha utmāda-graha, cchāya-graha apasmāra-graha ḍāka-ḍākinī-graha, revati-graha jamika-graha śakuni-graha mantra-nandika-graha, lamvika-graha hanu ekāhikā dvaitīyakā straitīyakā catur-thakā. Nitya-jvarā viṣama-jvarā vatikā paittikā,śleṣmikā san-nipatikā ardhavabhedaka arocaka,akṣi-rogaṃ nasa-rogaṃ mukha-rogaṃ hṛd-rogaṃ gala-grahaṃ, karnṇa-śūlaṃ danta-śūlaṃ hṛdaya-śūlaṃ marma- śūlaṃ, pārśva-śūlaṃ pṛṣṭha-śūlaṃ udara-śūlaṃ kaṇṭī-śūlaṃ, vasti-śūlaṃ ūru-śūlaṃ jāṅgha-śūlaṃ hasta-śūlaṃ, pāda-śūlaṃ vetāḍa ḍāka-ḍākinī kāṇḍu kiṭibhalotavai sarpa-lohāliṅga,śūṣatra sagara viśa-yoga,agni udaka mara vaira kāntāra trai-laṭaka vṛścika sarpa nakula,siṃgha vyāghra ṛkṣa tarakṣa mṛga, sva-para jīva teṣāṃ mahā-vjroṣṇīṣaṃ mahā-pratyaṅgiraṃ. Yāvadvā-daśa yojanābhyantareṇa, sīmā-bandhaṃ karomi, diśā-bandhaṃ karomi, pāra-vidyā-bandhaṃ karomi, tejo-bandhaṃ karomi, hasta-bandhaṃ karomi , pāda-bandhaṃ karomi, sarvāṅga-pratyaṅga-bandhaṃ Oṃ anale anale viśade viśade vīra vjra-dhare, bandha bandhani, vajra-pāṇi phaṭ! hūṃ trūṃ phaṭ! svāhā. Namaḥ stathāgatāya sugatāya arhate samyak-saṃbuddhāya, siddhyantu mantra-pada svāhā. Chú Lăng Nghiêm Việt Nam mô Lăng Nghiêm Hội thượng Phật Bồ tát. 3x Diệu trạm tổng trì bất động tôn,Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy ngã ức kiếp điên đảo lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân. Nguyện kim đắc quả thành Bảo VươngHoàn độ như thị Hằng sa thử thâm tâm phụng trần sát,Thị tắc danh vi báo Phật ân. Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,Ngũ trược ác thế thệ tiên nhất chúng sanh vị thành Phật,Chung bất ư thử thủ Nê hoàn. ại hùng đại lực đại từ bi,Hy cánh thẩm trừ vi tế ngã tảo đăng Vô Thượng Giác,Ư thập phương giới tọa đạo tràng, Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong,Thước-ca-ra tâm vô động chuyển. Nam mô thường trụ thập phương mô thường trụ thập phương mô thường trụ thập phương mô Thích Ca Mâu Ni mô Phật đảnh Thủ Lăng mô Quán Thế Âm Bồ mô Kim Cang Tạng Bồ tát. Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bách bảo quang, quang trung dõng xuất thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung. ảnh phóng thập đạo bách bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện thập Hằng Hà sa Kim cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới. ại chúng ngưỡng quán, úy ái kiêm bão, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai tuyên thuyết thần chú. Ệ NHẤT nam mô / tát đát tha / tô già đa da / a ra ha đế / tam miệu tam bồ đà tỏanam mô / tát đát tha / phật đà cu chi sắc ni samnam mô / tát bà / bột đà bột địa / tát đa bệ tệnam mô / tát đa nẩm / tam miệu tam bồ đà / cu tri nẩm / ta xá ra bà / ca tăng già nẩmnam mô / lô kê / a la hán đa nẩmnam mô / tô lô / đa ba na nẩmnam mô / ta yết rị đà / già di nẩmnam mô / lô kê tam miệu già đa nẩm / tam miệu già ba ra / để ba đa na nẩmnam mô / đề bà ly sắc nỏanam mô / tất đà da / tỳ địa da / đà ra ly sắc nỏa / xá ba noa / yết ra ha / ta ha ta ra / ma tha nẩmnam mô / bạt ra ha ma ninam mô / nhân đà ra da → nam mô / bà già bà đế / lô đà ra da / ô ma bát đế / ta hê dạ da 2. nam mô / bà già bà đế / na ra dả noa da / bàn giá ma ha / tam mộ đà ra 3. nam mô / tất yết rị đa da 4. nam mô / bà già bà đế / ma ha ca la da / địa rị bát lặc na già ra / tỳ đà ra ba / noa ca ra da / a địa mục đế / thi ma xá na nê / bà tất nê / ma đát rị già noa 5. nam mô / tất yết rị đa da 6. nam mô / bà già bà đế / đa tha già đa / cu la da → nam mô / bát đầu ma / cu la da nam mô / bạc xà ra / cu la da nam mô / ma ni / cu la da nam mô / già xà / cu la da → 1. nam mô / bà già bà đế / đế rị trà / du ra tây na / ba ra ha ra / noa ra xà da / đa tha già đa da 2. nam mô / bà già bà đế / nam mô a di đa bà da / đa tha dà đa da a ra ha đế tam miệu tam bồ đà da 3. nam mô / bà già bà đế / a sô bệ da / đa tha già đa da a ra ha đế tam miệu tam bồ đà da 4. nam mô / bà già bà đế / bệ sa xà da / cu lô phệ trụ rị da / bác ra bà ra xà da / đa tha già đa da 5. nam mô / bà già bà đế / tam bổ sư tỷ đa / tát lân nại ra lạt xà da / đa tha già đa da a ra ha đế tam miệu tam bồ đà da 6. nam mô / bà già bà đế / xá kê dã mẫu na duệ / đa tha già đa da a ra ha đế tam miệu tam bồ đà da 7. nam mô / bà già bà đế / lạt đác na kê / đô ra xà da / đa tha dà đa da a ra ha đế tam miệu tam bồ đà da → Đế biều / nam mô tát yết rị đa / ế đàm bà già bà đa / tát đát tha / dà đô sắc ni sam / tát đát đa / bác đác lam / nam mô a bà ra thị đam / bác ra đế / dương kỳ ra / tát ra bà / bộ đa / yết ra ha / ni yết ra ha / yết ca ra ha ni / bạc ra tỷ địa da / sất đà nễ / a ca la / mật rị trụ / bát rị đát ra da / nảnh yết rị / Tát ra bà… → tát ra bà / bàn đà na / mục xoa ni / tát ra bà / đột sắc tra / đột tất phạp / bát na nễ / phạt ra ni / giả đô ra thất đế nẩm / yết ra ha ta ha tát ra nhã xà / tỳ đa băng ta na yết rị / a sắc tra băng xá đế nẩm / na xoa / sát đác ra nhã xà / ba ra tát đà / na yết rị / a sắc tra nẩm / ma ha / yết ra ha nhã xà / tỳ đa băng tát na yết rị / tát bà xá đô / lô nễ bà ra nhả xà / hô lam đột tất phạp / nan giá na xá ni / tỷ sa / xá tất đác ra / a kiết ni ô / đà ca ra nhã xà / a bác ra thị đa cu ra / Ma ha bát la chiến trì… → ma ha bác la chiến trì / ma ha điệp đa / ma ha đế xà / ma ha thuế đa / xa bà la / ma ha bạt la / bàn đà ra bà tất nể / a rị da đa ra / tỳ rị cu tri / thệ bà tỳ xà da / bạt xà ra / ma lễ để / tỳ xá lô đa / bột đằng võng ca / bạt xà ra / chế hắt na a giá / ma la chế bà / bác ra chất đa / bạt xà ra / thiện trì / tỳ xá la giá / phiến đa xá bệ / đề bà bổ thị đa / tô ma lô ba / ma ha thuế đa / a rị da đa ra / ma ha bà la / a bác ra / bạt xà ra thương yết la chế bà…. → bạt xà ra / thương yết la chế bà / bạt xà ra / câu ma rị / cu lam đà rị / bạt xà ra / hắc tát đa giá / tỳ địa gia / càn giá na / ma ly ca / khuất tô mẫu bà / yết ra đát na / tỳ lô giá na / cu li da / dạ ra thố sắc ni sam / tỳ chiết lam / bà ma ni giá / bạt xà ra / ca na ca / ba ra bà / lô xà na / bạt xà ra / đốn trỉ giá / thuế đa giá / ca ma la/ sát xa thi / ba ra bà / ế đế di đế / mẫu đà ra yết noa/ Ta bệ ra sám / quật phạm đô / ấn thố na mạ mạ tỏa. Ô hồng / rị sắc yết noa / bác lặc xá tất đa / tát đát tha / già đô sắc ni sam hổ hồng đô lô ung / chiêm bà na hổ hồng đô lô ung / tất đam bà na hổ hồng đô lô ung / ba ra sắc địa da / tam bác xoa / noa yết ra hổ hồng đô lô ung / tát bà dược xoa / hắc la sát ta / yết ra ha nhã xà / tỳ đằng băng tát na yết ra hổ hồng đô lô ung / giả đô ra thi để nẩm / yết ra ha / ta ha tát ra nẩm / tỳ đằng băng tát na ra hổ hồng đô lô ung / ra xoa → Bà già phạm / tát đát tha / già đô sắc ni sam Ba ra điểm xà kiết rị / ma ha / ta ha tát ra / bột thụ / ta ha tát ra / thất rị sa cu tri / ta ha tát nê / đế lệ / a tệ đề thị bà li đa / tra tra anh ca / ma ha bạt xà lô đà ra / đế rị bồ bà na / mạn trà la Ô hồng / ta tất đế / bạc bà đô / mạ mạ / ấn thố na mạ mạ tỏa Ệ NHỊ Ô hồng / rị sắc yết noa / bác lặc xá tất đa / tát đát tha / già đô sắc ni sam hổ hồng đô lô ung / chiêm bà na hổ hồng đô lô ung / tất đam bà na hổ hồng đô lô ung / ba ra sắc địa da / tam bác xoa / noa yết ra hổ hồng đô lô ung / tát bà dược xoa / hắc la sát ta / yết ra ha nhã xà / tỳ đằng băng tát na yết ra hổ hồng đô lô ung / giả đô ra thi để nẩm / yết ra ha / ta ha tát ra nẩm / tỳ đằng băng tát na ra hổ hồng đô lô ung / ra xoa → Bà già phạm / tát đát tha / già đô sắc ni sam Ba ra điểm xà kiết rị / ma ha / ta ha tát ra / bột thụ / ta ha tát ra / thất rị sa cu tri / ta ha tát nê / đế lệ / a tệ đề thị bà li đa / tra tra anh ca / ma ha bạt xà lô đà ra / đế rị bồ bà na / mạn trà la Ô hồng / ta tất đế / bạc bà đô / mạ mạ / ấn thố na mạ mạ tỏa Ệ TAM Ra xà / bà dạ / chủ ra / bạt dạ / a kỳ ni / bà dạ / ô đà ca / bà dạ / tỳ xa / bà dạ / xá tát đa ra / bà dạ / bà ra chước yết ra / bà dạ / đột sắc xoa / bà dạ / a xá nễ / bà dạ / a ca la mật rị trụ / bà dạ / đà ra ni bộ di kiếm , ba già ba đà / bà dạ / ô la ca bà đa / bà dạ / lặc xà đàn trà / bà dạ / na già / bà dạ / tỳ điều đát / bà dạ / tô ba ra noa / bà dạ → Dược xoa / yết ra ha / ra xoa tư / yết ra ha / tất rị đa / yết ra ha / tỳ xá già / yết ra ha / bộ đa / yết ra ha / cưu bàn trà / yết ra ha / bổ đơn na / yết ra ha / ca tra bổ đơn na / yết ra ha / tất kiền độ / yết ra ha / a bá tất ma ra / yết ra ha / ô đàn ma đà / yết ra ha / xa dạ / yết ra ha / hê rị bà đế / yết ra ha → Xả đa / ha rị nẩm / yết bà / ha rị nẩm / lô địa ra / ha rị nẩm / mang ta / ha rị nẩm / mê đà / ha rị nẩm / ma xà / ha rị nẩm / xà đa / ha rị nữ / thị tỷ đa / ha rị nẩm / tỳ đa / ha rị nẩm / bà đa / ha rị nẩm / a du giá / ha rị nữ / chất đa / ha rị nữ → – Đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm / tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – ba rị bạt ra giả ca / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – trà diễn ni / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – ma ha bát du, bác đát dạ, lô đà ra / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – na ra dạ noa / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – đát đỏa già lô trà tây / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – ma ha ca la, ma đát rị già noa / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – ca ba rị ca / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – xà dạ yết ra, ma độ yết ra, tát bà ra tha, ta đạt na / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – giả đốt ra, bà kỳ nễ / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – tỳ rị dương, hất rị tri, nan đà kê sa ra, già noa bác đế, sách hê dạ / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – na yết na, xá ra bà noa / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – a la hán / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – tỳ đa ra già / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di – bạt xà ra ba nễ, cụ hê dạ, cụ hê dạ, ca địa bát đế / hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê la dạ di Ra xoa võng / bà già phạm / ấn thố na mạ mạ tỏa Ệ TỨ Bà già phạm / tát đát đa / bát đát ra / nam mô túy đô đế / a tất đa / na la lạt ca / ba ra bà / tất phổ tra / tỳ ca tát đát đa / bác đế rị / thập phật la / thập phật la / đà ra / đà ra / tần đà ra / tần đà ra / sân đà / sân đà / hổ hồng / hổ hồng / phấn tra / phấn tra / phấn tra / phấn tra / phấn tra / ta ha / hê hê phấn / a mâu / ca da phấn / a ba ra đề / ha đa phấn / bà ra / bà ra / đà phấn / a tố ra / tỳ đà ra ba / ca phấn → Tát bà đề bệ / tệ phấn / tát bà na già / tệ phấn / tát bà dược xoa / tệ phấn/ tát bà càn thát bà / tệ phấn / tát bà bổ đơn na / tệ phấn / ca tra bổ đơn na / tệ phấn / tát bà đột lang chỉ đế / tệ phấn / tát bà đột sáp tỷ lê, hất sắt đế / tệ phấn / tát bà thập bà lê / tệ phấn / tát bà a bá tất ma lê / tệ phấn / tát bà xá ra bà noa / tệ phấn / tát bà địa đế kê / tệ phấn / tát bà đát ma đà kê / tệ phấn / tát bà tỳ đà da ra, thệ giá lê / tệ phấn / xà dạ yết ra, ma độ yết ra, tát bà ra tha, ta đà kê / tệ phấn / tỳ địa dạ, giá rị / tệ phấn / giả đô ra phược kỳ nễ / tệ phấn / bạt xà ra câu ma rị, tỳ đà dạ ra / thệ tệ phấn / ma ha ba ra đinh dương, xoa kỳ rị / tệ phấn → Bạt xà ra thương yết la dạ / ba ra trượng kỳ ra xà / da phấn / ma ha ca la dạ / ma ha mạt đát rị ca noa / nam mô ta yết rị đa / dạ phấn / bí sắc noa tỳ / duệ phấn / bột ra ha mâu ni / duệ phấn / a kỳ ni / duệ phấn/ ma ha yết ly / duệ phấn / yết la đàn trì / duệ phấn / miệc đát rị / duệ phấn / lao đát rị / duệ phấn / giá văn trà / duệ phấn / yết la ra đát rị / duệ phấn / ca bát ly / duệ phấn / a địa mục chất đa / ca thi ma / xá na bà tư nễ / duệ phấn Diễn kiết chất / tát đỏa bà tỏa / mạ mạ / ấn thố na mạ mạ tỏa Ệ NGŨ ột sắc tra / chất đa / a mạc đát rị / chất đa Ô xà / ha ra / già bà / ha ra / lô địa ra / ha ra / bà ta / ha ra / ma xà / ha ra/ xà đa / ha ra / thị bí đa / ha ra / bạc lược dạ / ha ra / càn đà / ha ra / bố sử ba / ha ra / phả la / ha ra / bà tỏa / ha ra Bát ba / chất đa / đột sắc tra / chất đa / lao đà ra / chất đa → Dược xoa / yết ra ha / la sát ta / yết ra ha / bế lệ đa / yết ra ha / tỳ xá già / yết ra ha / bộ đa / yết ra ha / cưu bàn đồ / yết ra ha / tất càn đà / yết ra ha / ô đát ma đà / yết ra ha / xa dạ / yết ra ha / a bá tát ma ra / yết ra ha / trạch kê cách, trà kỳ ni / yết ra ha / rị Phật đế / yết ra ha / xà di ca / yết ra ha / xá cu ni / yết ra ha / lao đà ra , nan địa ca / yết ra ha / a lam bà / yết ra ha / càn độ ba ni / yết ra ha → Thập phạt ra, yên ca hê ca, trụy đế / dược ca / đát lệ đế / dược ca Giả đột thác ca, ni đề / thập phạt ra / bí sam ma / thập phạt ra / bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắc mật ca, ta nể bát đế ca, tát bà / thập phạt ra Thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt, lô chế kiếm, a ỷ / lô kiềm / mục khư / lô kiềm / yết rị đột / lô kiềm → yết ra ha, yết lam, yết noa / du lam / đản đa / du lam / hất rị dạ / du lam / mạt mạ / du lam / bạt rị thất bà / du lam / bí lật sắc tra / du lam / ô đà ra / du lam / yết tri / du lam / bạt tất đế / du lam / ổ lô / du lam / thường già / du lam / hắc tất đa / du lam / bạt đà / du lam / ta phòng áng già, bác ra trượng già / du lam → Bộ đa bí đa trà / trà kỳ ni / thập bà ra / đà đột lô ca / kiến đốt lô kiết tri / bà lộ đa tỳ / tát bác lô / ha lăng già / du sa đát ra / ta na yết ra / tỳ sa dụ ca / a kỳ ni / ô đà ca / mạt ra bệ ra / kiến đa ra / a ca la mật rị đốt / đát liểm bộ ca / địa lật lạt tra / bí rị sắc chất ca / tát bà na cu la / tứ dẫn già tệ / yết ra rị dược xoa / đác ra sô / mạt ra thị / phệ đế sam / ta bệ sam / tát đát đa / bác đát ra / ma ha / bạc xà lô sắc ni sam / ma ha / bác lại trượng kỳ lam / dạ ba đột đà / xá dụ xà na / biện đát lệ noa / tỳ đà da / bàn đàm ca lô di / đế thù / bàn đàm ca lô di / bát ra tỳ đà / bàn đàm ca lô di Đát điệt tha / án / a na lệ / tỳ xá đề / bệ ra / bạc xà ra đà rị / bàn đà / bàn đà nễ / bạt xà ra / báng ni phấn / hổ hồng / đô lô ung phấn / ta bà ha Tâm Tịnh biên soạn trang này để bổ sung thêm cũng như khích lệ và ủng hộ mọi người, nếu có điều gì sơ sót xin quí vị hoan hỷ. Chân Thanh Mỹ chỉnh sửa bài. Tượng Bạch Tản Cái Phật Đỉnh tại Leh, Ladakh ở miền bắc Ấn Độ. Tượng Bạch Tản Cái Phật Đỉnh tại Leh, Ladakh ở miền bắc Ấn ảnh Wikipedia Post Views 7,892
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Shurangama Mantra Movie Bộ phim giáo dục kinh phật, 'Chính nghĩa Lăng Nghiêm', được sản xuất bởi Học viện Shi-Fang Leng Yan của Tu viện Rui Ji Si ở Phúc Kiến, Trung Quốc. Được thực hiện vào năm 2015 -2017, bộ phim dựa trên văn bản Phật giáo Đại thừa của Trung Quốc, 'Kinh Lăng Nghiêm'. Nó mở đầu bằng việc truyền Kinh từ Ấn Độ sang Trung Quốc của Sư trưởng Paramiti, vào thời nhà Đường, và bản dịch của nó từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Quốc tại một tu viện ở Quảng Châu, Trung Quốc. Lời thoại của người phiên dịch trong phim tạo thành bối cảnh tường thuật để mở ra câu chuyện về tình trạng khó khăn của Ananda liên quan đến một người phụ nữ Matanga, sau đó ông đã được Đức Phật giải cứu như thế nào với sức mạnh của Thần chú Lăng Nghiêm, và Đức Phật hướng dẫn con đường đi đến giác ngộ không chính xác Đầu tiên chương Kinh. Bên cạnh việc trình bày những tinh hoa của Kinh dịch, bộ phim còn hé lộ những nét giao thoa lịch sử, văn hóa tôn giáo hài hòa giữa con người của 2 nền văn minh cổ đại tiên tiến. Nó cũng cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về cuộc sống của những người dân thường và những người xuất gia trong thời Đức Phật khi Ấn Độ dưới sự cai trị của Vua Prasenajit. Bộ phim đã được trình chiếu tại nhiều buổi xem tại nhà khác nhau do cộng đồng Phật giáo ở Trung Quốc tổ chức vào năm 2017. Bộ phim đã có ảnh hưởng sâu rộng và được cả những người sùng đạo Phật cũng như những khán giả xem phim khác đón nhận.
Om anale analeVisàde visàdeVira vajra-dhareBandha banhanivajra pàni phatHùm trùmPhat Lăng Nghiêm là kinh được dùng như kính chiếu yêu quỉ trong Phật giáo. Tất cả các loại thiên ma, ngoại đạo và các loại ma quỉ ly, mỵ, vọng lượng đều tự phơi bày chân tướng khi gặp phải Kinh Lăng Nghiêm. Chúng không có cách nào che dấu và cũng không có chỗ để chạy trốn. Trong quá khứ, khi Đại sư Trí Giả nghe thấy có sự hiện hữu của kinh này, ngài hướng về nước Ấn Độ lễ lạy suốt mười tám năm. Trong mười tám năm đó, ngài dùng tâm chân thành tột bực để cầu nguyện Kinh này sẽ dược truyền bá đến Trung tất cả những vị cao tăng thạc đức trong quá khứ, tất cả những tăng ni trí tuệ cao thượng, không có một vị nào mà không ca tụng kinh Lăng Nghiêm. Vi vậy, hễ Kinh Lăng Nghiêm còn tồn tại trên thế gian này, thì Phât Pháp còn tồn tại. Nếu Kinh Lăng Nghiêm bị hủy diệt thì Phật Pháp cũng sẽ bị hủy diệt theo. Phật Pháp sẽ suy tàn như thế nào ? Đó là khi Kinh Lăng Nghiêm bắt dầu bị hủy diệt. Ai sẽ hủy diệt Kinh Lăng Nghiêm ? Những thiên ma ngoại đạo sẽ hủy diệt kinh Lăng Nghiêm. Chúng thấy kinh Lăng Nghiêm giống như cây đinh trong mắt của chúng, như cây gai nhọn trong thớ thịt của chúng. Chúng không thể ngồi yên, hay đứng yên, mà sẽ tìm cách tạo ra một tà thuyết mới cho rằng Kinh Lăng Nghiêm là giả Phật tử, chúng ta nên nhận biết đạo lý chân thật. Mỗi chữ giáo pháp trong kinh Lăng Nghiêm đều là tuyệt đối chân thật, hông một chữ nào không diển bày chân lý. Vì vậy hiện tại chúng ta đang nghiên cúu phần Năm Mươi Ấm Ma, chúng ta càng nên nhân thức kinh Lăng Nghiêm quan trọng như thế nào. Kinh Lăng Nghiêm là kinh mà các loại tà ma, quỉ, yêu tinh sợ Thượng Hư Vân sống đến 120 tuổi, và trong suốt cuộc đời của mình, ngài đã không viết chú giải cho bất cứ một kinh nào khác ngoại trừ kinh Lăng Nghiêm. Ngài đặc biệt cẩn thận giữ gìn những bản thảo chú giải của mình về kinh Lăng Nghiêm. Ngài giữ gìn những bản thảo này qua nhiều thập niên, nhưng sau đó chúng đã bị mất trong biến cố Vân Môn. Đây là việc khiến Hòa Thượng Hư Vân ân hận nhất trong đời. Ngài đề nghị rằng, là người xuất gia, chúng ta nên nghiên cứu học kinh Lăng Nghiêm cho đến mức mà chúng ta có thể tụng đọc thuộc lòng Kinh từ đầu đến cuối cũng như từ cuối lên đầu, xuôi ngược đều thuộc. Đó là đề nghị của ngài. Tôi biết rằng, suốt cuộc đời ngài, Hòa Thượng Hư Vân đã xem Kinh Lăng Nghiêm đặc biệt quan có người cho Hòa Thượng Hư Vân biết rằng có những người cho Kinh Lăng Nghiêm là giả tạo, ngài giảng giải rằng sự suy đồi của Phật pháp xảy ra chỉ vì những người này đã tìm cách cho rằng mắt cá là ngọc trai, làm mê lầm người khác khiến họ không phân biệt được đúng sai. Họ làm cho chúng sanh mù quáng đến nỗi không còn nhận thức được Phật pháp. Họ cho thật là giả, cho giả là thật. Hãy nhìn xem người này viết một quyển sách và mọi người đều đọc, người kia viết một quyển sách và mọi người cũng đều đọc. Còn Kinh thật do chính Phật nói thì nằm trên kệ sách, không ai từng đọc đến. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng nghiệp của chúng sanh rất nặng. Nếu họ nghe điều tà tri tà kiến, thì sẵn sàng tin liền. Còn nếu quý vị nói Pháp dựa trên chánh tri chánh kiến, thì họ sẽ không tin theo. Tại sao họ không tin theo ? Vì họ không có đủ thiện căn và nền tảng tốt. Đó là lý do vì sao họ có sự nghi ngờ đối với Chánh pháp. Họ luôn hoài nghi và không muốn đây tại Vạn Phật Thành, chúng ta sẽ lập Lăng Nghiêm Đàn Tràng, như thế sẽ là nơi lý tưởng cho những ai muốn phát tâm đọc tụng Kinh Lăng Nhiêm mỗi ngày một hay hai tiếng đồng hồ. Quý vị có thể học Kinh Lăng Nghiêm hằng ngày như đang học ở trường học, và học thuộc lòng để quý vị có thể tụng từ trí nhớ. Nếu quý vị có thể tụng từ trí nhớ Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa hay ngay cả Kinh Hoa Nghiêm, thì đó là điều tốt nhất. Nếu có người nào có thể thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa và Kinh Hoa Nghiêm, thì điều này có nghĩa rằng vẫn còn Chánh pháp tồn tại trên thế gian này. Vì vậy, tại một nơi kỳ diệu như Vạn Phật Thành, mọi người nên phát tâm Bồ đề làm những việc này. Không phải rằng chúng ta tranh nhau, nhưng chúng ta nên trở thành kiệt xuất, vượt lên đám đông, để làm những việc quá khứ, tôi có một uớc vọng Tôi muốn có thể tụng thuộc lòng kinh Lăng Nghiêm và kinh Pháp Hoa. Ở Hồng Kông, có một môn đệ tên Quả Nhất Hằng Định có thể tụng thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm. Tôi dạy ông ta học Kinh Pháp Hoa, nhưng cuối cùng có lẽ ông ta vẫn chưa học thuộc hết, đó là điều rất đáng tiếc. Ở một nơi tốt đẹp như chúng ta đang có ở đây, tất cả quý vị nên phát đại quyết tâm học kinh Phật và giới luật - Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Tứ Phần Luật và Kinh Phạm Võng - cho đến quý vị thuộc lòng. Đó là điều tốt đẹp nhất vì lúc đó Chánh Pháp chắc chắn sẽ còn tồn tại rất lâu trên thế gian Thượng Tuyên Hóa
phim kinh lăng nghiêm