Sau khi bơm tinh trùng có nên quan hệ là thắc mắc mà các chuyên gia chăm sóc sức khỏe sinh sản nhận được từ khá nhiều người đặc biệt là ở những cặp vợ chồng đang có ý định mang thai bằng phương pháp này.Vậy để có thể mang lại kết quả tốt nhất sau khi bơm tinh trùng thì các cặp đôi cần phải lưu ý
Bổ Trung Ích Khí Tw3 được dùng trong trường hợp tỳ vị suy nhược, thân thể mỏi mệt, yếu sức, ăn ít, bụng trướng, tiêu chảy lâu ngày, sa dạ con, trĩ ngoại, trĩ nội ở cấp độ 1,2,3 kể cả khi búi trĩ sa ra và không tự co lên được.
Bài thuốc “Bổ trung ích khí” với các thảo dược thiên nhiên giúp bồi bổ tỳ vị, ích khí thăng đề => giải quyết 3 căn nguyên chính gây bệnh => điều trị TẬN GỐC và ngăn ngừa bệnh TRĨ tái phát hiệu quả. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vận dụng bài thuốc này
Phân biệt lợi khuẩn và bào tử lợi khuẩn để lựa chọn sản phẩm phù hợp. Bổ sung lợi khuẩn để cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột, giải quyết các rối loạn tiêu hóa. Sự ra đời của bào tử lợi khuẩn thực sự là một cuộc cách mạng mới trong việc kiểm soát và
Công dụng - Chỉ định của sản phẩm Bổ trung ích khí TW3. Bổ trung ích khí, bồi bổ trung tiêu, tăng khí lực. Dùng trong các trường hợp tỳ vị suy nhược, thân thể mệt mỏi, yếu sức, ăn ít, bụng trướng, tiêu chảy lâu ngày, sa dạ con, trĩ nội, trĩ ngoại. Chống chỉ định
Một số vị thuốc của có trong Khang Trĩ Hoàn chính là Đảng sâm, Hoàng kỳ, Đương quy, Bạch truật, Thăng ma, Sài hồ, Trần bì, Cam thảo. 8 vị thuốc của “Bổ Trung ích khí thang” như trên sẽ giúp “bổ trung khí, thăng đề”, phục hồi vị trí búi trĩ sa giãn rất đơn giản
9v0AtQ. Xuất xứ về bài thuốc bổ trung ích khí gia tam thất Thành phần vị thuốc trong bài thuốc bổ trung ích khí gia tam thất được xây dựng từ bài “Bổ trung ích khí thang” còn gọi là “Điều trung ích khí thang” nằm trong “Tỳ vị luận” của Lý Đông Viên, một danh y Trung quốc đời Kim thế kỷ XIII. Dựa trên cơ sở lý luận và kinh nghiêm thực tiễn của mình ông cho rằng trong ngũ tạng lục phủ thì tỳ vị đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động chức năng của các tạng phủ trong cơ thể con người. Ông đưa ra nhận định là trăm bệnh đều do tỳ vị bị tổn thương. Trong bài, các vị thuốc có tác dụng “Ôn bổ tỳ vị, thăng cử trung khí” giúp cho điều trị mọi chứng sa, khí hư hạ hãm có hiệu quả tốt Hải Thượng Lãn Ông sử dụng bài thuốc này điều trị các bệnh về hậu thiên trong quyển I “Khôn hoá thái chân”. Mục đích chủ chốt của bài này là “thăng đề dương khí” điều trị chứng tỳ khí hư hạ hãm gây sa nội tạng như sa dạ dầy, sa sinh dục, sa trực tràng, trĩ Nội dung bài thuốc bao gồm Đảng sâm 16g Trích hoàng kỳ 12g Xuyên qui 12g Bạch truật 12g Thăng ma 12g Sài hồ 10g Trần bì 08g Trích cam thảo 06g. Công dụng ích khí thăng dương, điều bổ tỳ vị. ứng dụng lâm sàng Chữa tỳ vị khí hư, ăn kém mệt mỏi, tự ra mồ hôi hoặc thấy phát sốt, mạch hữu vô lực. Chữa chứng tỳ khí hư hạ hãm gây sa nội tạng như Sa dạ dầy, sa sinh dục, sa trực tràng, trĩ. Chữa các chứng chảy máu kéo dài do rong kinh, rong huyết, do tỳ khí hư không nhiếp huyết. Chữa sốt kéo dài, người mệt mỏi, chân tay vô lực, bụng đầy khát, đại tiện lỏng hay nôn. Phân tích bài thuốc Trong bài lấy Hoàng kỳ, Đảng sâm là bộ phận cấu tạo chủ yếu của bài thuốc, dùng 2 vị với tính vị cam ôn để ích khí. Trong đó, lấy Hoàng kỳ, Đảng sâm làm chủ dược có công dụng thăng bổ, phối ngũ với Thăng ma,Sài hồ để thăng đề dương khí. Đặc điểm phối ngũ của bài thuốc chính là sự kết hợp giữa các vị thuốc thăng đề cới các vị thuốc bổ khí. Bạch truật, Trần bì, Xuyên quy, Cam thảo dùng để kiện tỳ, lý khí dưỡng huyết, hoà trung. Tác dụng của bài thuốc là điều bổ tỳ vị, thăng dương ích khí mà chữa được chứng khí hư hạ hãm Trong điều trị trĩ nội chảy máu kết hợp thêm tam thất nhằm mục đích chỉ huyết, khứ ứ, tiêu viêm. Công năng, tác dụng, tính vị qui kinh của các vị thuốc Đảng sâm codoropsinsp Còn có tên là phòng đảng sâm, lộ đảng sâm, xuyên đảng sâm, đông đảng sâm, rầy cáy, mần cáy. * Bộ phận dùng Rễ củ phơi khô của cây đảng sâm họ hoa chuông câmpnulaccae * Thành phần hoá học Trong đảng sâm có Saponin, đường, chất béo * Tác dụng dược lý cho chất đảng sâm làm tăng lượng huyết đường, hạ huyết áp, tăng hồng cầu, hạ bạch cầu. * Tính vị quy kinh Vị ngọt, tính bình vào kinh tỳ phế. * Công năng Bổ trung ích khí, sinh tân, chỉ khát, an thần * Trên lâm sàng dùng chữa tỳ hư, ăn không tiêu, chân tay yếu mỏi, phế hư sinh ho, phiền khát, mất ngủ * Liều lượng 8-20g/ngày Hoàng kỳ Radix Astragali Membranacei Là rễ phơi khô của cây Hoàng kỳ họ Đậu Leguminae là một trong các vị thuốc chuyên về bổ khí. Thành phần hoá học có astragalus, acetyl lastragaloside I, calycosin, saccharose, glucose tinh bột, chất nhầy, cholin, betain, nhiều loại acid amin, calycosin Tác dụng dược lý Hoàng kỳ làm tăng cường sức đề kháng của cơ thể, tăng co bóp cơ tim, giãn mạch ngoại vi, lợi liệu chống viêm. Tính vị quy kinh vị ngọt, tính hơi ấm vào kinh Tỳ, Phế. Công năng Bổ trung, ích khí, ích vệ, cố biểu, lợi thuỷ, tiêu thũng, khứ độc, sinh cơ. Hoàng kỳ là vị thuốc sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như tỳ, phế khí hư, trung khí hư hạ hãm, vệ khí hư gây tự hãm, khí hư thuỷ thấp không vận hoá làm phù mặt, khí huyết bất túc làm cho các vết thương lâu lành. Ngoài ra còn điều trị các chứng, khí huyết lưỡng hư, tứ chi tê mỏi, trúng phong gây bán thân bất toại, khí hư làm bí đại tiện, tiêu khát Như vậy Hoàng kỳ và Nhân sâm là hai vị thuốc bổ khí tốt hay phối ngũ với nhau nhưng Nhân sâm sinh tân dịch và huyết dịch thiên về bổ chân âm, Hoàng kỳ ôn dưỡng tỳ dương kiêm bổ vệ khí thiên về bổ chân dương của ngũ tạng. Bạch truật Rhizoma Atractylodis Macrocephalae Còn gọi là Đồng truật, Cống truật, Triết truật, U truật , thân rễ phơi khô của cây Bạch truật Atractylodes Macrocephala Koidz, họ Cúc Asteraceae, có chứa 1,4% tinh dầu gồm atractylol, atractylenolid I, II, III, eusdesmol và vitamin A . Tác dụng dược lý Bạch truật làm cường tráng cơ thể, lợi niệu, chống đông máu, bảo vệ gan, chống khối u, kháng khuẩn. Tính vị quy kinh Vị đắng, ngọt, tính ấm, vào kinh tỳ vị. Công năng Bổ khí, kiện tỳ, sinh huyết, táo thấp, lợi thuỷ, cố biểu, chỉ hãn, an thai. Đây là vị thuốc được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như tỳ khí hư nhược,rối loạn tiêu hoá, đoản khí, mệt mỏi, thuỷ thũng do tỳ hư, thấp thịnh, khí hư, đại tiện bí, thấp tỳ mà lưng gối đau, biểu hư tự hãn, thai động do khí hư. Liều dùng 12-16g/ngày. Đương quy Radix angelicae sinensis Rễ cây phơi khô của cây Đương quy Angelica sinensis Olive diels, họ Hoa tán Apiaceae. Thành phần hoá học Trong Đương quy có tinh dầu 0,2% 40% acid tự do, ligustilide, nbutyliden, phthalide, bergapten, sesquiterpen dodecanol, tetradecanol, safrol, carvacrol, cadinen, vitamin B120,25- 0,40%, acid folimic, biotin Tác dụng dược lý Đương quy chống thiếu máu, giảm mỡ máu, điều tiết, trấn tĩnh hệ thống thần kinh, tăng tốc độ lưu huyết, cải thiện lưu lượng máu, nuôi dưỡng cơ tim, chống loạn nhịp tim, tăng khả năng nhận oxy của hồng cầu, ức chế kết tụ tiểu cầu, chống hình thành đông máu, tăng co bóp cơ trơn bàng quang và ruột non . Tính vị quy kinh Vị ngọt, cay, đắng, tính ấm vào kinh can, tâm, tỳ, phế. Công năng Bổ huyết điều kinh, hoạt huyết chỉ thống, trừ độc , sinh cơ, chỉ khái bình suyễn Đây là vị thuốc thường được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như huyết hư, sắc mặt xanh nhợt, móng tay móng chân nhợt, kinh nguyệt không đều, bế kinh, thống kinh, kinh quá nhiều, băng kinh, sản hậu, chấn thương gây ứ huyết, đau mỏi, tê chân tay, trúng phong, bán thân bất toại, lở loét ngoài da, khái suyễn, tâm huyết bất túc dẫn đến hồi hộp đánh trống ngực , mất ngủ, hay quên Liều dùng 12-24g/ngày. Thăng ma Rhizoma cimicifugae Còn gọi là Đông bắc thăng ma, Hưng an thăng ma, Đại tam diệp thăng ma. Thân rễ phơi khô của cây Thăng ma Cimicifuga dahusica Turer Maxim, họ Mao lương Ranunculaceae. Thành phần hoá học Thăng ma có chứa cimicifugol, cimigol, cimicifugenol, 25 ometylcimigenol tanin và acid béo. Tác dụng dược lý Thăng ma có thể kháng viêm, chống đau, kháng vi khuẩn. Tính vị quy kinh Vị cay ngọt, tính hơi hàn vào kinh tỳ, phế, vị, đại trường. Công năng Thanh nhiệt, giải độc, giải biểu , thấu chẩn, thăng dương. Thăng ma là vị thuốc thường được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như Đau đầu do phong nhiệt dương minh, nhiệt thịnh, đau đầu, viêm họng lở loét họng lưỡi, khí hư hạ hãm, đoản khí, sa tạng phủ sa dạ dày, sa sinh dục, sa trực tràng… Liều dùng 6-12g/ngày. Sài hồ Radix bupleuri Còn gọi là Bắc sài hồ, Sài hồ diệp, rễ phơi khô của cây Sài hồ họ Hoa tán Apiaceae Thành phần hoá học Có 0,5% saponin, spinasterol, stigmast – 7- enol, 1 chất rượu là bupleurumola C37H48O2 và tinh dầu. Tác dụng dược lý Sài hồ làm hạ nhiệt, giảm đau, chống viêm, chống loét, giảm cholesterol máu, ức chế vi khuẩn, tăng cường khả năng miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Tính vị quy kinh Vị cay đắng, tính hơi hàn, vào kinh can, đởm. Công năng Giải biểu , hạ nhiệt, sơ can, thăng đề dương khí. Đây là vị thuốc được sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như ngoại cảm phát sốt, hàn nhiệt vãng lai, can khí uất trệ dẫn tới đau tức ngực sườn, ở phụ nữ kinh không đều, thống kinh, khí hư hạ hãm, sa trực tràng Liều dùng 8-16g/ngày. Trần bì Peiricarpium Citri Reticulatae Còn gọi là Hoàng quyết, là vỏ của cây quýt Citrus deliciosa Tenore, họ Cam quýt Rutaceae càng để lâu năm càng tốt. Thành phần hoá học Có tinh dầu 3,8% hesperidin C50H6O27, vitamin A,B và 0,8% tro. Tác dụng dược lý Tinh dầu kích thích tiêu hóa dạ dầyvà đại tràng có khả năng điều trị cảm giác đầy chướng trong bệnh ruột và đại tràng mạn tính, tăng tiết dịch dạ dày, chống viêm giãn phế quản, cắt cơn hen. Tính vị quy kinh Vị cay, đắng, tính ấm vào kinh tỳ, phế. Công năng Lý khí hòa trung, táo thấp hóa đàm. Đây là vị thuốc thường dùng trên lâm sàng trong các trường hợp như bụng đầy trướng, thấp trở ở tỳ,vị, nôn do vị hàn khí nghịch, khí hư gây đại tiên bí, ho nhiều đờm, đau ngực. Liều dùng 4-8 g/ngày. Cam thảo Radix Glycyrrhizae Uralensis Còn gọi là Quốc lão hoặc Bắc cam thảo là rễ hoặc thân phơi khô của cây Cam thảo Glycyrrhizae uralenses Fish, họ Cánh bướm Fabaceae. Thành phần hoá học Trong Cam thảo có thấy glucid 4,7 – 10,97%, tinh bột 4,77 – 5,92% hoạt chất thuộc nhóm saponoid là glycyrrhizin huộc nhóm flavonoid là liquirtin, giquiritigenin licurazid, isoquiritin, isoliquiritigenin,neoliquiritin, neoisoliquiritin. Tác dụng dược lý Cam thảo có tác dụng giống hormon của vỏ thượng thận giữ muối và nước, chống viêm, chống dị ứng, chống co thắt, chống loét, giải độc, trừ ho, long đờm, giảm mỡ máu, ổn định thần kinh tiền đình. Tính vị quy kinh Vị ngọt, tính bình, vào kinh tỳ, phế, vị, tâm. Công năng Bổ trung ích khí, trừ đàm, chỉ thống, tiêu thũng, giải độc, làm hòa hoãn dược tính của các vị thuốc, điều tiết acid bảo vệ dạ dày. Đây là vị thuốc sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp như tỳ vị hư, khí hư, huyết thiếu, hồi hộp, tự hãn, mồ hôi ra quá nhiều, ho, khó thở, bụng và tứ chi đau, loét ở miệng lưỡi, ung nhọt, làm điều hòa các vị thuốc và một số bệnh nội tiết. Liều lượng dùng 4-6/ ngày. Tam thất Panax Pseudo – ginseng Là rễ phơi khô của cây tam thất thuộc họ ngũ gia bì Araliaceae. Thành phần hoá học Trong tam thất có 2 chất saponin ArasaponinA và ArasaponinB. Tác dụng dược lý Tăng sức đề kháng của cơ thể, có khả năng kháng lại hiện tượng giảm Prothrombin trong máu thỏ và giảm khả năng máu đông gây thực nghiệm với dicuma-rol. Tính vị quy kinh Ngọt, đắng, ấm và kinh can, vị. Công năng Khứ ứ chỉ huyết, tiêu viêm, chỉ thống. Dùng vị thuốc sử dụng trên lâm sàng trong các trường hợp sau Chảy máu do ứ huyết, ho ra máu, nôn ra máu, lỵ, rong kinh, rong huyết, sau khi đẻ bị rong huyết, làm mất cơn đau do sưng huyết Ngã sưng đau, mụn nhọt sưng đau, đau dạ dày, thống kinh, đau do khí trệ, đau khớp. Ngoài ra, tại chỗ chữa các vết thương chảy máu bằng cách rốc bột tam thất. Liều dùng 1,5g – 6g/ 1 ngày Khái quát chung, các vị thuốc tạo thành bài “Bổ trung ích khí” có tác dụng tăng cường chức năng tiêu hoá tiếp thu, tiêu viêm và cầm máu, phù hợp để điều trị trĩ nội xuất huyết. Bổ trung ích khí đã được bậc tiền bối gia tam thất nhằm tăng cường khả năng chỉ huyết và nâng cao sức khoẻ toàn thân, ứng dụng điều trị trĩ càng phù hợp hơn.
Theo YHCT, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ là do “Ham ăn đồ hậu vị, hoặc do rượu chè, dâm dục, lo nghĩ… uất nhiệt tích độc mà sinh ra…” Danh y Tuệ Tĩnh. Trong cơ thể chúng ta “tạng tỳ có quan hệ biểu lý với phủ vị. Tạng tỳ có chức năng vận hóa thủy cốc, chủ về cơ nhục, thống và nhiếp huyết… Lo nghĩ quá sẽ hại tỳ. Thận dương nuôi dưỡng tỳ dương…”. Tỳ hư thì do các nguyên nhân sau Thứ nhất là do chất dinh dưỡng trong thức ăn không đầy đủ hoặc do ăn uống bừa bãi. Thứ mà các danh y gọi là “ham ăn đồ hậu vị” chính là các loại thức ăn, uống cay nóng như tiêu, ớt, cà phê, rượu, chè… làm chức năng vận hóa của tạng tỳ bị tổn thương. Thứ hai là do tình chí con người bị kích thích quá mức, đã được YHCT đúc kết là “lo quá hại tỳ”. Thứ ba là do tạng thận vì “sắc dục quá độ” làm cho nguồn tinh khí bị hao tán, nên không đủ để đưa lên nuôi dưỡng tỳ dương. Tỳ đã hư thì làm cho vị có quan hệ biểu lý với tỳ cũng suy theo. Khi tỳ vị đã suy yếu thì không vận hóa được thủy cốc, nên tinh hoa đồ ăn uống không biến thành chất dinh dưỡng nuôi cơ thể mà thành thấp nhiệt, đàm trọc ứ đọng làm phát sinh các búi trĩ, tạo thành dịch tiết gây ngứa ngáy vùng hậu môn. Tỳ hư không làm chủ được cơ nhục, làm cơ nhục bị nhẽo khí hư gây hạ hãm, nên các búi trĩ cùng khối da, cơ vùng hậu môn sa xuống. Tỳ hư không thống nhiếp được huyết, làm chảy máu khi đi đại tiện. Nhiệt tích đọng ở trường vị làm hao huyết, khô tân dịch nên đại tiện bị táo bón. Như vậy có thể khẳng định rằng tất cả các nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ đều tác động đến tỳ vị làm tỳ vị hư yếu mới làm bệnh trĩ bùng phát. Vì vậy, để chữa trị và dự phòng sự tái phát của bệnh trĩ, ngoài việc điều trị triệu chứng làm tiêu các búi trĩ, chống táo bón, chống chảy máu… thì phải tập trung vào điều trị gốc bệnh, tức là phải điều chỉnh chế độ ăn uống phù hợp, giữ được trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái, có quan hệ tình dục chừng mực, và đặc biệt là phải lấy việc bổ dưỡng tỳ vị làm chính. Trong số hàng nghìn bài thuốc cổ phương của YHCT, có một bài thuốc nếu biết gia giảm thích hợp, thì có thể vừa điều trị triệu chứng vừa điều trị nguyên nhân bệnh trĩ rất hiệu nghiệm, đó là bài “Bổ trung ích khí” do Lý Đông Viên, một danh y Trung Quốc chế ra. Bài thuốc gồm các vị sau Hoàng kỳ tẩm mật ong, sao thơm 12g, nhân sâm 4g có thể thay bằng bố chính sâm 12g, bạch truật sao với gạo 8g, đương quy tẩm rượu rồi chưng lên 8g, cam thảo sao với mật ong 4g, thăng ma sao với rượu 6g, trần bì sao thơm 6g, sài hồ 6g. Nếu đại tiện ra máu nhiều, gia thêm cỏ nhọ nồi sao đen 8g, hoa hòe sao thơm 8g. Nếu nóng rát, tiết dịch nhiều ở vùng hậu môn gia hoàng bá sao vàng 6g. Bài “Bổ trung ích khí” gia giảm trên có tác dụng như sau – Điều trị các triệu chứng Làm mất cảm giác tức nặng vùng hậu môn – trực tràng, nâng các búi trĩ và tổ chức da cơ lên có thăng ma, sài hồ. Chống táo bón có đương quy, hoàng bá, hoa hòe. Trừ đàm thấp gây tiết dịch, viêm nhiễm có trần bì, hoàng bá, thăng ma. Làm sạch tổ chức hoại tử và sớm tái tạo tổ chức mới nhờ hoàng kỳ, đương quy, bạch truật. Làm bền vững thành mạch, chống chảy máu nhờ cỏ mực, hoa hòe. – Điều trị nguyên nhân Như đã phân tích, muốn điều trị và dự phòng tái phát bệnh trĩ, cần phải chữa vào gốc bệnh, tức là phải ưu tiên bổ dưỡng tỳ vị là chính. Vì vậy, cấu tạo của bài thuốc có đến 5 vị thuốc để kiện tỳ, bổ vị, kích thích ăn uống là hoàng kỳ, bạch truật, cam thảo, nhân sâm, trần bì. Với tác dụng như vậy nên bài thuốc “Bổ trung ích khí” gia giảm điều trị hiệu nghiệm bệnh trĩ nội độ I và II. Nếu trĩ độ III, IV, trĩ hỗn hợp, trĩ ngoại thì vừa dùng các phương pháp khác làm rụng các búi trĩ, đồng thời uống kèm với bài thuốc này cho đến khi lành vết thương. Để phòng ngừa bệnh trĩ tái phát, những lúc người bệnh có cảm giác tức nặng, nóng rát vùng hậu môn hoặc đại tiện táo bón nên uống từ 3-5 thang “Bổ trung ích khí” gia giảm cho mỗi đợt. Cách dùng Nếu dùng thuốc thang thì sắc như sau Nước nhất đổ vào 3 chén nước sắc thành 1 chén, nước nhì đổ vào 2 chén nước sắc thành 8/10 chén hòa chung chia 2 lần uống sau khi ăn cơm. Nếu dùng tễ Mỗi ngày uống 20-30g chia thành 2 lần sau khi ăn cơm. Tuy nhiên đối với các bệnh nhân bị xuất huyết ở phần trên như ho ra máu, chảy máu cam, ho, suyễn, bệnh kiết lỵ, người gầy yếu, nóng bức, hay ra mồ hôi… thì không dùng được bài này. Theo Sức khỏe đời sống
Thành phần của bài Bổ trung ích khíTác dụng của thuốc bổ trung ích khíCông năng Chủ trịChống chỉ địnhGiải thích phương thuốc bổ trung thangỨng dụng bài Bổ trung ích khí trong các sản phẩm của Dược phẩm PQA Bổ trung ích khí thang là sáng chế của danh y Lý Đông Viên, một trong bốn thầy thuốc lớn đời Kim, Nguyên, cũng là người đặt cơ sở cho học thuyết Tỳ vị’ của Trung y. Bài thuốc này được rất nhiều thầy thuốc đời sau áp dụng để điều trị cho bệnh nhân bị tỳ vị khí hư, biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, trướng bụng; hoắc bệnh nhân bị thiếu khí hạ hãm biểu hiện ở phân lỏng, ỉa chảy lâu ngày, thoát giang hay sa trực tràng, sa dạ con. Vậy thành phần, cơ chế tác dụng cũng như cách dùng bài “Bổ trung ích khí” như thế nào? Mời bạn đọc theo dõi. Dược điển Việt Nam 5 có ghi lại thành phần của Viên hoàn Bổ trung ích khí bao gồm Hoàng kỳ Radix Astragali membranacei 100gĐảng sâm Radix Codonopsis pilosulae 30gCam thảo Radix Glycyrrhizae 30gBạch truật Radix Atractylodis macrocephalae 30gĐương quy Radix Angelica sinensis 20gThăng ma Rhizoma Cimicifugae 30gSài hồ Radix Bupleuri 30gTrần bì Pericarpium Citri reticulatae perenne 30gGừng tươi Rhizoma Zingiberis 12gĐại táo Fructus Ziziphi jujubae 102gMật ong vừa đủ Mel 1000g Tùy vào thể bệnh cũng như từng bệnh nhân mà các thầy thuốc có thể gia giảm thêm một số vị thuốc khác vào bài bổ trung ích khí, tuy nhiên thành phần chính của bài thuốc này luôn bao gồm 8 vị thuốc. Đó là Hoàng kỳ, Sâm Nhân sâm hoặc Đảng sâm, Cam thảo, Đương quy, Bạch truật, Thăng ma, Sài hồ, Trần bì. Tác dụng của thuốc bổ trung ích khí Công năng Bổ trung ích khí, thăng dương, cử hãm. Chủ trị Chứng tỳ vị hư Ăn kém, mệt mỏi tự ra mồ hôi hoặc thấy phát sốt, mạch hư vô tỳ khí hư hãm gây sa giáng nội tạng Sa dạ dày, sa trực tràng, sa sinh dục, trĩChứng chảy máu kéo dài do rong kinh, rong huyết, huyết tán … do tỳ hư không thống sốt cơ năng kéo dài người mệt mỏi, tay chân vô lực, bụng đầy, khát không muốn uống, đại tiện lỏng, hay nôn. >>> Xem thêm Chữa sa tử cung bằng phương pháp Y học cổ truyền Chống chỉ định Người bị nhiệt lỵ mới phát, ra mồ hôi trộm, đau đầu, mất ngủ do huyết áp, thổ huyết, nục huyết chảy máu cam, khí nghịch, suyễn thổ chứng bệnh của trẻ em, dùng bài Bổ trung phải nên thận trọng trẻ em còn thuần dương, tính của dương ưa bốc lên, giờ nếu lại cho uống loại thuốc thăng đề, tất sẽ gây thành “trạng thái dương trơ trọi” rất tai hại.Kiêng ăn các thứ sống, lạnh khi đang dùng thuốc Giải thích phương thuốc bổ trung thang Các vị thuốc làm nên Bổ trung ích khí thang Bài Bổ trung ích khí thang chuyên chữa các chứng đói no thất thường, làm lụng quá sức gây tổn thương Tỳ, Vị. Khi Tỳ, Vị bị tổn thương, Phế khí bị tà. Phế là gốc của khí, cho nên dùng Hoàng kỳ để bổ Phế và bền chặt ngoài biểu da làm Quân. Tỳ, Vị một khi bị hư, Phế khí sẽ bị tuyệt trước, vị Kỳ sẽ giúp ích bì mao, vít chặt tấu lý lỗ chân lông, không để cho đổ mồ hôi làm tổn thương nguyên khí Đảng sâm, Cam thảo để bổ Tỳ, ích khí, hòa trung, tả hỏa làm Bạch truật có công năng làm ráo khí thấp và khỏe tỳ, Đương quy có công năng làm nhuận thổ và hòa huyết, dưỡng âm làm ma, Sài hồ thăng cử thanh dương hãm ở dưới, là sứ dược trong bài thuốc bổ bì cho khí được thông lợi. Trần bì dùng chung với các vị thuốc bổ thời bổ, dùng một mình thời tả. Những người Tỳ khí rối loạn ở trong hông ngực là do khí trong với khí đục làm xáo lộn, cho nên dùng Trần bì không cạo bỏ xơ trắng ở bên trong để cho nó điều chỉnh lại; hơn nữa, nó còn có tác dụng giúp thanh khí dẫn lên để làm cho thăng tán bỏ khí trệ, giúp các vị tân, cam cũng làm việc. Do đó, khí trong thăng lên, khí đục sẽ giáng xuống. Xét chung cả bài, vừa bổ khí kiện tỳ để trị gốc của khí hư, lại thăng đề dương khí bị hãm ở dưới, để khiến cái đục giáng xuống, cái trong thăng lên, do đó điều hòa tỳ vị, tinh khí của gạo nước sinh hóa có nguồn, các chứng hư khí của vị sẽ tự hết. Mọi thứ thoát xuống, sa xuống đều tự trở về đúng vị trí. Ngày nay người ta thường dùng bài này để trị sa dạ dày, trĩ, bong sa niêm mạc dạ dày, sa thận, sa tử cung, nhược cơ nặng, viêm gan mạn tính, viêm ruột, đái đục như cháo, trẻ em tiêu chảy, chứng giảm bạch cầu, tiêu chảy lâu ngày, băng lậu huyết rong kinh. Dược lý hiện đại nghiên cứu cho thấy bài thuốc này có tác dụng tăng cường miễn dịch, điều chỉnh nhu động ruột, phòng ngừa thiếu máu, tăng cường sinh lực. Ứng dụng bài Bổ trung ích khí trong các sản phẩm của Dược phẩm PQA PQA có ứng dụng bài thuốc kinh điển của thần y Lý Đông Viên vào hai sản phẩm đó là PQA Ích khí thăng dương có công dụng điều bổ tỳ vị, thăng dương ích khí, hỗ trợ giảm các triệu chứng sa tử cung, sa dạ dày, trĩ.. Dùng cho người bị sa tử cung, sa dạ dày, trĩ PQA Thăng dương khí có công dụng giúp nhuận tràng, tăng tính bền của thành mạch. Hỗ trợ giảm các triệu chứng của bệnh trĩ. Dùng cho người bị trĩ với các biểu hiện chảy máu, sa búi trĩ, đau rát hậu môn Mọi thông tin chi tiết về cách sử dụng sản phẩm bạn có thể liên hệ với Dược sĩ Đại học Nguyễn Thị Thược 0965 222 806 – 0932 233 201 để được tư vấn. Tham khảo Bộ Y tế 2018, Dược điển Việt Nam V, tập 2, Nhà xuất bản Y Y tế Vụ khoa học và đào tạo 2006, Dược học cổ truyền, Nhà xuất bản Y Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác 2005, Hải thượng y tông tâm lĩnh, tập 1, Nhà xuất bản Y học. Login
Ngày đăng 06/07/2014, 1020 “Bổ trung ích khí” Bài thuốc quý chữa bệnh trĩ Theo YHCT, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ là do “Ham ăn đồ hậu vị, hoặc do rượu chè, dâm dục, lo nghĩ uất nhiệt tích độc mà sinh ra ” Danh y Tuệ Tĩnh. Trong cơ thể chúng ta “tạng tỳ có quan hệ biểu lý với phủ vị. Tạng tỳ có chức năng vận hóa thủy cốc, chủ về cơ nhục, thống và nhiếp huyết Lo nghĩ quá sẽ hại tỳ. Thận dương nuôi dưỡng tỳ dương ”. Tỳ hư thì do các nguyên nhân sau Thứ nhất là do chất dinh dưỡng trong thức ăn không đầy đủ hoặc do ăn uống bừa bãi. Thứ mà các danh y gọi là “ham ăn đồ hậu vị” chính là các loại thức ăn, uống cay nóng như tiêu, ớt, cà phê, rượu, chè làm chức năng vận hóa của tạng tỳ bị tổn thương. Thứ hai là do tình chí con người bị kích thích quá mức, đã được YHCT đúc kết là “lo quá hại tỳ”. Thứ ba là do tạng thận vì “sắc dục quá độ” làm cho nguồn tinh khí bị hao tán, nên không đủ để đưa lên nuôi dưỡng tỳ dương. Tỳ đã hư thì làm cho vị có quan hệ biểu lý với tỳ cũng suy theo. Khi tỳ vị đã suy yếu thì không vận hóa được thủy cốc, nên tinh hoa đồ ăn uống không biến thành chất dinh dưỡng nuôi cơ thể mà thành thấp nhiệt, đàm trọc ứ đọng làm phát sinh các búi trĩ, tạo thành dịch tiết gây ngứa ngáy vùng hậu môn. Tỳ hư không làm chủ được cơ nhục, làm cơ nhục bị nhẽo khí hư gây hạ hãm, nên các búi trĩ cùng khối da, cơ vùng hậu môn sa xuống. Tỳ hư không thống nhiếp được huyết, làm chảy máu khi đi đại tiện. Nhiệt tích đọng ở trường vị làm hao huyết, khô tân dịch nên đại tiện bị táo bón. Như vậy có thể khẳng định rằng tất cả các nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ đều tác động đến tỳ vị làm tỳ vị hư yếu mới làm bệnh trĩ bùng phát. Vì vậy, để chữa trị và dự phòng sự tái phát của bệnh trĩ, ngoài việc điều trị triệu chứng làm tiêu các búi trĩ, chống táo bón, chống chảy máu thì phải tập trung vào điều trị gốc bệnh, tức là phải điều chỉnh chế độ ăn uống phù hợp, giữ được trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái, có quan hệ tình dục chừng mực, và đặc biệt là phải lấy việc bổ dưỡng tỳ vị làm chính. Trong số hàng nghìn bài thuốc cổ phương của YHCT, có một bài thuốc nếu biết gia giảm thích hợp, thì có thể vừa điều trị triệu chứng vừa điều trị nguyên nhân bệnh trĩ rất hiệu nghiệm, đó là bài “Bổ trung ích khí” do Lý Đông Viên, một danh y Trung Quốc chế ra. Bài thuốc gồm các vị sau Hoàng kỳ tẩm mật ong, sao thơm 12g, nhân sâm 4g có thể thay bằng bố chính sâm 12g, bạch truật sao với gạo 8g, đương quy tẩm rượu rồi chưng lên 8g, cam thảo sao với mật ong 4g, thăng ma sao với rượu 6g, trần bì sao thơm 6g, sài hồ 6g. Nếu đại tiện ra máu nhiều, gia thêm cỏ nhọ nồi sao đen 8g, hoa hòe sao thơm 8g. Nếu nóng rát, tiết dịch nhiều ở vùng hậu môn gia hoàng bá sao vàng 6g. Bài “Bổ trung ích khí” gia giảm trên có tác dụng như sau - Điều trị các triệu chứng Làm mất cảm giác tức nặng vùng hậu môn - trực tràng, nâng các búi trĩ và tổ chức da cơ lên có thăng ma, sài hồ. Chống táo bón có đương quy, hoàng bá, hoa hòe. Trừ đàm thấp gây tiết dịch, viêm nhiễm có trần bì, hoàng bá, thăng ma. Làm sạch tổ chức hoại tử và sớm tái tạo tổ chức mới nhờ hoàng kỳ, đương quy, bạch truật. Làm bền vững thành mạch, chống chảy máu nhờ cỏ mực, hoa hòe. - Điều trị nguyên nhân Như đã phân tích, muốn điều trị và dự phòng tái phát bệnh trĩ, cần phải chữa vào gốc bệnh, tức là phải ưu tiên bổ dưỡng tỳ vị là chính. Vì vậy, cấu tạo của bài thuốc có đến 5 vị thuốc để kiện tỳ, bổ vị, kích thích ăn uống là hoàng kỳ, bạch truật, cam thảo, nhân sâm, trần bì. Với tác dụng như vậy nên bài thuốc “Bổ trung ích khí” gia giảm điều trị hiệu nghiệm bệnh trĩ nội độ I và II. Nếu trĩ độ III, IV, trĩ hỗn hợp, trĩ ngoại thì vừa dùng các phương pháp khác làm rụng các búi trĩ, đồng thời uống kèm với bài thuốc này cho đến khi lành vết thương. Để phòng ngừa bệnh trĩ tái phát, những lúc người bệnh có cảm giác tức nặng, nóng rát vùng hậu môn hoặc đại tiện táo bón nên uống từ 3-5 thang “Bổ trung ích khí” gia giảm cho mỗi đợt. Cách dùng Nếu dùng thuốc thang thì sắc như sau Nước nhất đổ vào 3 chén nước sắc thành 1 chén, nước nhì đổ vào 2 chén nước sắc thành 8/10 chén hòa chung chia 2 lần uống sau khi ăn cơm. Nếu dùng tễ Mỗi ngày uống 20-30g chia thành 2 lần sau khi ăn cơm. Tuy nhiên đối với các bệnh nhân bị xuất huyết ở phần trên như ho ra máu, chảy máu cam, ho, suyễn, bệnh kiết lỵ, người gầy yếu, nóng bức, hay ra mồ hôi thì không dùng được bài này. . “Bổ trung ích khí” Bài thuốc quý chữa bệnh trĩ Theo YHCT, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ là do “Ham ăn đồ hậu vị, hoặc do rượu chè, dâm dục, lo nghĩ uất nhiệt tích độc mà sinh. nghìn bài thuốc cổ phương của YHCT, có một bài thuốc nếu biết gia giảm thích hợp, thì có thể vừa điều trị triệu chứng vừa điều trị nguyên nhân bệnh trĩ rất hiệu nghiệm, đó là bài “Bổ trung ích. kích thích ăn uống là hoàng kỳ, bạch truật, cam thảo, nhân sâm, trần bì. Với tác dụng như vậy nên bài thuốc “Bổ trung ích khí” gia giảm điều trị hiệu nghiệm bệnh trĩ nội độ I và II. Nếu trĩ - Xem thêm -Xem thêm “Bổ trung ích khí” Bài thuốc quý chữa bệnh trĩ potx, “Bổ trung ích khí” Bài thuốc quý chữa bệnh trĩ potx,
Theo YHCT, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ là do “Ham ăn đồ hậu vị, hoặc do rượu chè, dâm dục, lo nghĩ... uất nhiệt tích độc mà sinh ra...” Danh y Tuệ Tĩnh. Trong cơ thể chúng ta “tạng tỳ có quan hệ biểu lý với phủ vị. Tạng tỳ có chức năng vận hóa thủy cốc, chủ về cơ nhục, thống và nhiếp huyết... Lo nghĩ quá sẽ hại tỳ. Thận dương nuôi dưỡng tỳ dương...”. Cây bạch truật. Tỳ hư thì do các nguyên nhân sau Thứ nhất là do chất dinh dưỡng trong thức ăn không đầy đủ hoặc do ăn uống bừa bãi. Thứ mà các danh y gọi là “ham ăn đồ hậu vị” chính là các loại thức ăn, uống cay nóng như tiêu, ớt, cà phê, rượu, chè... làm chức năng vận hóa của tạng tỳ bị tổn thương. Thứ hai là do tình chí con người bị kích thích quá mức, đã được YHCT đúc kết là “lo quá hại tỳ”. Thứ ba là do tạng thận vì “sắc dục quá độ” làm cho nguồn tinh khí bị hao tán, nên không đủ để đưa lên nuôi dưỡng tỳ dương. Tỳ đã hư thì làm cho vị có quan hệ biểu lý với tỳ cũng suy theo. Khi tỳ vị đã suy yếu thì không vận hóa được thủy cốc, nên tinh hoa đồ ăn uống không biến thành chất dinh dưỡng nuôi cơ thể mà thành thấp nhiệt, đàm trọc ứ đọng làm phát sinh các búi trĩ, tạo thành dịch tiết gây ngứa ngáy vùng hậu môn. Tỳ hư không làm chủ được cơ nhục, làm cơ nhục bị nhẽo khí hư gây hạ hãm, nên các búi trĩ cùng khối da, cơ vùng hậu môn sa xuống. Tỳ hư không thống nhiếp được huyết, làm chảy máu khi đi đại tiện. Nhiệt tích đọng ở trường vị làm hao huyết, khô tân dịch nên đại tiện bị táo bón. Như vậy có thể khẳng định rằng tất cả các nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ đều tác động đến tỳ vị làm tỳ vị hư yếu mới làm bệnh trĩ bùng phát. Vì vậy, để chữa trị và dự phòng sự tái phát của bệnh trĩ, ngoài việc điều trị triệu chứng làm tiêu các búi trĩ, chống táo bón, chống chảy máu... thì phải tập trung vào điều trị gốc bệnh, tức là phải điều chỉnh chế độ ăn uống phù hợp, giữ được trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái, có quan hệ tình dục chừng mực, và đặc biệt là phải lấy việc bổ dưỡng tỳ vị làm chính. Trong số hàng nghìn bài thuốc cổ phương của YHCT, có một bài thuốc nếu biết gia giảm thích hợp, thì có thể vừa điều trị triệu chứng vừa điều trị nguyên nhân bệnh trĩ rất hiệu nghiệm, đó là bài “Bổ trung ích khí” do Lý Đông Viên, một danh y Trung Quốc chế ra. Bài thuốc gồm các vị sau Hoàng kỳ tẩm mật ong, sao thơm 12g, nhân sâm 4g có thể thay bằng bố chính sâm 12g, bạch truật sao với gạo 8g, đương quy tẩm rượu rồi chưng lên 8g, cam thảo sao với mật ong 4g, thăng ma sao với rượu 6g, trần bì sao thơm 6g, sài hồ 6g. Nếu đại tiện ra máu nhiều, gia thêm cỏ nhọ nồi sao đen 8g, hoa hòe sao thơm 8g. Nếu nóng rát, tiết dịch nhiều ở vùng hậu môn gia hoàng bá sao vàng 6g. Bài “Bổ trung ích khí” gia giảm trên có tác dụng như sau Cây nhân sâm. - Điều trị các triệu chứng Làm mất cảm giác tức nặng vùng hậu môn - trực tràng, nâng các búi trĩ và tổ chức da cơ lên có thăng ma, sài hồ. Chống táo bón có đương quy, hoàng bá, hoa hòe. Trừ đàm thấp gây tiết dịch, viêm nhiễm có trần bì, hoàng bá, thăng ma. Làm sạch tổ chức hoại tử và sớm tái tạo tổ chức mới nhờ hoàng kỳ, đương quy, bạch truật. Làm bền vững thành mạch, chống chảy máu nhờ cỏ mực, hoa hòe. - Điều trị nguyên nhân Như đã phân tích, muốn điều trị và dự phòng tái phát bệnh trĩ, cần phải chữa vào gốc bệnh, tức là phải ưu tiên bổ dưỡng tỳ vị là chính. Vì vậy, cấu tạo của bài thuốc có đến 5 vị thuốc để kiện tỳ, bổ vị, kích thích ăn uống là hoàng kỳ, bạch truật, cam thảo, nhân sâm, trần bì. Với tác dụng như vậy nên bài thuốc “Bổ trung ích khí” gia giảm điều trị hiệu nghiệm bệnh trĩ nội độ I và II. Nếu trĩ độ III, IV, trĩ hỗn hợp, trĩ ngoại thì vừa dùng các phương pháp khác làm rụng các búi trĩ, đồng thời uống kèm với bài thuốc này cho đến khi lành vết thương. Để phòng ngừa bệnh trĩ tái phát, những lúc người bệnh có cảm giác tức nặng, nóng rát vùng hậu môn hoặc đại tiện táo bón nên uống từ 3-5 thang “Bổ trung ích khí” gia giảm cho mỗi đợt. Cách dùng Nếu dùng thuốc thang thì sắc như sau Nước nhất đổ vào 3 chén nước sắc thành 1 chén, nước nhì đổ vào 2 chén nước sắc thành 8/10 chén hòa chung chia 2 lần uống sau khi ăn cơm. Nếu dùng tễ Mỗi ngày uống 20-30g chia thành 2 lần sau khi ăn cơm. Tuy nhiên đối với các bệnh nhân bị xuất huyết ở phần trên như ho ra máu, chảy máu cam, ho, suyễn, bệnh kiết lỵ, người gầy yếu, nóng bức, hay ra mồ hôi... thì không dùng được bài này. Theo Suckhoedoisong
Theo YHCT, nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ là do “Ham ăn đồ hậu vị, hoặc do rượu chè, dâm dục, lo nghĩ... uất nhiệt tích độc mà sinh ra...” Danh y Tuệ Tĩnh. Trong cơ thể chúng ta “tạng tỳ có quan hệ biểu lý với phủ vị. Tạng tỳ có chức năng vận hóa thủy cốc, chủ về cơ nhục, thống và nhiếp huyết... Lo nghĩ quá sẽ hại tỳ. Thận dương nuôi dưỡng tỳ dương...”. Tỳ hư thì do các nguyên nhân sau Thứ nhất là do chất dinh dưỡng trong thức ăn không đầy đủ hoặc do ăn uống bừa bãi. Thứ mà các danh y gọi là “ham ăn đồ hậu vị” chính là các loại thức ăn, uống cay nóng như tiêu, ớt, cà phê, rượu, chè... làm chức năng vận hóa của tạng tỳ bị tổn thương. Thứ hai là do tình chí con người bị kích thích quá mức, đã được YHCT đúc kết là “lo quá hại tỳ”. Thứ ba là do tạng thận vì “sắc dục quá độ” làm cho nguồn tinh khí bị hao tán, nên không đủ để đưa lên nuôi dưỡng tỳ dương. Tỳ đã hư thì làm cho vị có quan hệ biểu lý với tỳ cũng suy theo. Khi tỳ vị đã suy yếu thì không vận hóa được thủy cốc, nên tinh hoa đồ ăn uống không biến thành chất dinh dưỡng nuôi cơ thể mà thành thấp nhiệt, đàm trọc ứ đọng làm phát sinh các búi trĩ, tạo thành dịch tiết gây ngứa ngáy vùng hậu môn. Tỳ hư không làm chủ được cơ nhục, làm cơ nhục bị nhẽo khí hư gây hạ hãm, nên các búi trĩ cùng khối da, cơ vùng hậu môn sa xuống. Tỳ hư không thống nhiếp được huyết, làm chảy máu khi đi đại tiện. Nhiệt tích đọng ở trường vị làm hao huyết, khô tân dịch nên đại tiện bị táo bón. Như vậy có thể khẳng định rằng tất cả các nguyên nhân phát sinh bệnh trĩ đều tác động đến tỳ vị làm tỳ vị hư yếu mới làm bệnh trĩ bùng phát. Vì vậy, để chữa trị và dự phòng sự tái phát của bệnh trĩ, ngoài việc điều trị triệu chứng làm tiêu các búi trĩ, chống táo bón, chống chảy máu... thì phải tập trung vào điều trị gốc bệnh, tức là phải điều chỉnh chế độ ăn uống phù hợp, giữ được trạng thái tâm lý vui vẻ, thoải mái, có quan hệ tình dục chừng mực, và đặc biệt là phải lấy việc bổ dưỡng tỳ vị làm chính. Trong số hàng nghìn bài thuốc cổ phương của YHCT, có một bài thuốc nếu biết gia giảm thích hợp, thì có thể vừa điều trị triệu chứng vừa điều trị nguyên nhân bệnh trĩ rất hiệu nghiệm, đó là bài “Bổ trung ích khí” do Lý Đông Viên, một danh y Trung Quốc chế ra. Bài thuốc gồm các vị sau Hoàng kỳ tẩm mật ong, sao thơm 12g, nhân sâm 4g có thể thay bằng bố chính sâm 12g, bạch truật sao với gạo 8g, đương quy tẩm rượu rồi chưng lên 8g, cam thảo sao với mật ong 4g, thăng ma sao với rượu 6g, trần bì sao thơm 6g, sài hồ 6g. Nếu đại tiện ra máu nhiều, gia thêm cỏ nhọ nồi sao đen 8g, hoa hòe sao thơm 8g. Nếu nóng rát, tiết dịch nhiều ở vùng hậu môn gia hoàng bá sao vàng 6g. Bài “Bổ trung ích khí” gia giảm trên có tác dụng như sau - Điều trị các triệu chứng Làm mất cảm giác tức nặng vùng hậu môn - trực tràng, nâng các búi trĩ và tổ chức da cơ lên có thăng ma, sài hồ. Chống táo bón có đương quy, hoàng bá, hoa hòe. Trừ đàm thấp gây tiết dịch, viêm nhiễm có trần bì, hoàng bá, thăng ma. Làm sạch tổ chức hoại tử và sớm tái tạo tổ chức mới nhờ hoàng kỳ, đương quy, bạch truật. Làm bền vững thành mạch, chống chảy máu nhờ cỏ mực, hoa hòe. - Điều trị nguyên nhân Như đã phân tích, muốn điều trị và dự phòng tái phát bệnh trĩ, cần phải chữa vào gốc bệnh, tức là phải ưu tiên bổ dưỡng tỳ vị là chính. Vì vậy, cấu tạo của bài thuốc có đến 5 vị thuốc để kiện tỳ, bổ vị, kích thích ăn uống là hoàng kỳ, bạch truật, cam thảo, nhân sâm, trần bì. Với tác dụng như vậy nên bài thuốc “Bổ trung ích khí” gia giảm điều trị hiệu nghiệm bệnh trĩ nội độ I và II. Nếu trĩ độ III, IV, trĩ hỗn hợp, trĩ ngoại thì vừa dùng các phương pháp khác làm rụng các búi trĩ, đồng thời uống kèm với bài thuốc này cho đến khi lành vết thương. Để phòng ngừa bệnh trĩ tái phát, những lúc người bệnh có cảm giác tức nặng, nóng rát vùng hậu môn hoặc đại tiện táo bón nên uống từ 3-5 thang “Bổ trung ích khí” gia giảm cho mỗi đợt. Cách dùng Nếu dùng thuốc thang thì sắc như sau Nước nhất đổ vào 3 chén nước sắc thành 1 chén, nước nhì đổ vào 2 chén nước sắc thành 8/10 chén hòa chung chia 2 lần uống sau khi ăn cơm. Nếu dùng tễ Mỗi ngày uống 20-30g chia thành 2 lần sau khi ăn cơm. Tuy nhiên đối với các bệnh nhân bị xuất huyết ở phần trên như ho ra máu, chảy máu cam, ho, suyễn, bệnh kiết lỵ, người gầy yếu, nóng bức, hay ra mồ hôi... thì không dùng được bài này.
bổ trung ích khí chữa trĩ